Kính gửi anh chị em bantroi
Mãi năm
1976, lớp sinh viên bọn mình mới quay về thi tốt nghiệp, mặc dù theo quy định
của Bộ Giáo dục, số trưng dụng đi tiếp quản miền Nam không phải thi
tốt nghiệp; Ông hiệu trưởng mới
thay cụ Nghi cho rằng cái bọn đi tiếp quản chắc chắn tiêm nhiễm nhiều thói
hư tật xấu nên cần chỉnh huấn lại.
Mặc dù phải thi lại môn võ thuật vì bị tụt đường
huyết, trong số 200 học sinh khoá ấy, may mắn làm sao
mình được lọt vào danh sách 70 người thi đỗ với các điểm là 3, 4, 4, 5,
trong đó Triết học được có 3 điểm. Thi xong vẫn thấy Triết học “U tì quốc”
lắm và mình quyết xem cái món dành cho đám Lưu manh, trộm cắp ấy thế
nào?
TRIẾT HỌC TRONG “SÁCH ĐẠO ĐỨC”
Xưa nay,
triết học thường được dùng cho số ít người, nhưng "người biết thì không
nói, người nói thì không biết", thậm chí định nghĩa rất rối
rắm.
Theo
WIKIPEDIA: "Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung
và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người
trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn
tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn
ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức
mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận
có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập
luận.".
Định nghĩa
như thế thì...chỉ những giáo sư triết
học mới hiểu, hóa ra nó được dịch ra từ sách Tây, theo sau định nghĩa này sẽ
còn một đống định nghĩa nữa.
Nhìn sang
phương Tây, danh từ Triết học (Philosophy) hiện nay mở ra tới 7 khái niệm khác
nhau do sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới, chủ yếu danh
từ Philosophy được sử dung trong Tôn giáo, Văn học, Tâm lý học. Đúng
như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hiện nay, tư tưởng nhiều, triết học nhiều;
Nghe cái gì? Đọc cái gì? Lấy cái gì làm cơ sở cho hành động của mình là rất khó; căn
cứ lý luận của Đảng Lao động Việt Nam là: Cái gì có lợi cho dân thì hết
sức làm, cái gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Hãy xem lại
gốc tự Hy Lạp của Philosophy nghĩa là gì và xem nó đã biến dạng thế
nào?
Danh từ
Philosophy (Phi-lô-sô-phi) - Triết học được lấy từ tiếng Hy Lạp,
(phylos) có nghĩa là "tình yêu" hay "chọn bạn " và (sophie)
có nghĩa là "sự khôn ngoan." Như vậy, "Triết học" có
nghĩa là "tìm kiếm sự khôn
ngoan". Theo Socrates (Xô-crát) 469–399 TCN, nhà
triết học cổ Hy Lạp, Philosophy còn được dùng như một môn khoa học nghiên
cứu về cái chết. Thật kỳ lạ khi Socrates sống cùng thời Lão Tử.
Người Nhật
quả là thông minh khi mang chữ “Khôn ngoan” (哲):
ghép vào khái niệm "Triết học" (哲学) thay cho từ Philosophy của Âu châu để
đem đến nền văn hóa phương đông một danh từ với ý
nghĩa Khoa học của sự Khôn ngoan, rất sát với khái niệm nguyên thủy
của Philosophy.
Nôm na “triết học là một môn khoa học nghiên cứu
về bản chất của thế giới khách quan và chủ quan, nhằm giúp con người có cách xử
thế khôn ngoan trong xã hội và với tự nhiên". Thành thật xin lỗi
ông bạn tiến sỹ Triết học của mình cũng như các giáo sư Triết về sự nhầm lẫn
thời trai trẻ.
Wikipedia
định nghĩa Triết học như vậy là vì quên Lão Tử với “Đạo Đức Kinh” là cuốn sách
Triết học khai sáng thời cổ Châu Á như Georg Wilhem Friedrich Hegel
(Hê-ghen) (1770-1831), nhà triết học vĩ đại người Đức khẳng định.
Mình không
có tham vọng dịch lại toàn bộ quyển ĐẠO ĐỨC KINH, với 5000 con chữ đã biến đổi
sau 2800 năm, trộn lẫn trong một đất nước có hàng ngàn dân tộc ấy thì không thể
sống đủ thời gian mà viết được; chỉ muốn qua đây nói sơ lược về
khái niệm ĐẠO ĐỨC của người Việt mà lâu nay bị người đời hiểu nhầm.
Thế “Đạo
Đức” là gì? Theo Wikipedia: Đạo đức là một hiện tượng xã hội
phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con
người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của
một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định
về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội”.
Thế thì
...quá mệt mỏi. Đó chính là khái niệm của Moral (tiếng Pháp)
hoặc Morality (tiếng Anh) dùng trong phạm trù tâm lý, chỉ hành vi hay
suy nghĩ của con người tự xác định là sai hay đúng đối với các giá trị tiêu
chuẩn của xã hội. Nôm na đó là người “Ngoan”, chứ chưa phải là người
"Khôn".
Mình hỏi
mọi người về khái niệm “KHÔN”, các cháu lái xe Taxi nói rằng, người Việt có sở
thích là luôn phải “khôn” hơn người khác, dù là tí ti, nhưng nói chung là
“DẠI”, người ta gọi đó là “Khôn lỏi”, còn Khôn ngoan thì phải vì lợi ich chung,
lâu dài, toàn thể.
Khái
niệm ”Đạo Đức” của người châu Á lại là một khái niệm về Triết học cho
đến trước khi người Nhật dùng chữ Triết thay cho Đạo Đức và Đạo Đức thay cho
Morality.
Ta
hãy quay trở về thời kì của Lão Tử sống ở nước Sở cách nay gần 2800
năm, với nhận thức không thể như hiện tại và các con chữ được đẽo một cách khó
nhọc trên thẻ tre, chắc mỗi một thẻ như thế chỉ cố gắng khắc được từ 3 đến
4 con chữ đơn giản chứ không loằng ngoằng như chữ Nho, chữ Trung
Quốc hiện nay.
Lão
tử có phải là một con người không? Không! Mặc dù Đạo Đức Kinh là
công trình của nhiều người nhưng ta cứ gọi tác giả của nó là Lão Tử cho lành
với ý nghia là Học thuyết của người già đã được chiêm nghiệm trong cuộc
sống - hay lão làng.
Triết học
của Lão Tử là gì?
Sách về
“Đạo Đức” (Đạo Đức Kinh) của Lão Tử cho rằng vạn vật tồn tại, phát triển và
tiêu vong không phụ thuộc vào sự cầu khấn của con người: “Thiên địa bất
nhân”, đơn giản có nghĩa là trời đất không phải là con người. Thế giới
khách quan đó được gọi là ĐẠO, trong triết học hiện đại, đó là phạm trù Vật
Chất và phần ý thức con người về thế giới khách quan đó được ông gọi là “DANH”.
Lão Tử
khẳng định, trước khi con người nhận biết được nó (Vô danh), vật chất là khởi
thủy của trời đất, sau khi nhận biết được nó hay nó được đặt tên (Hữu danh),
vật chất là nền tảng của vạn vật: “Vô danh thiên địa chi thủy, hữu
danh vạn vật chi mẫu”.
Nhận thức
con người hay “Danh” là nhận biết thế giới khách quan. Nhưng Lão Tử nhắc chúng
ta nên nhớ đó vẫn là nhận thức thôi, không nên nhầm lẫn: “Thử lưỡng giả
đồng, xuất nhi dị danh.” (Vật chất và ý thức là 2 vế của một cấu trúc
nhận thức tự nhiên, cần phải hiểu là 2). Đó còn gọi là thế giới quan hay quan
niệm về thế giới.
Thế giới
khách quan đó theo Lão Tử tồn tại như thế nào?
Đầy biến
động và mâu thuẫn: Thế giới vận động đại để như cái ống bễ lò rèn (Cốc
thần), liên tục vận động và lặp đi, lặp lại có quy luật: “Khoảng trời
đất giống như ống bễ, trống không mà không hao kiệt, càng động càng nhiều”
Vạn vật, kể
cả xã hội loài người tồn tại luôn có các mặt đối lập song hành, tự cấu thành
các cặp mà ngày nay chúng ta gọi là các cặp phạm trù: Đẹp - Xấu, Ác -
Tốt, Có- Không, Dễ - Khó; Ngắn - Dài; Cao - Thấp, Âm- Thanh,
Trước - Sau. Các nhà triết học ngày nay thích dùng các
cặp phạm trù "khách quan" như Chung - Riêng, Trong - Ngoài, Bản
chất - Hiện tượng.
Sự phát
triển của vạn vật (kể cả xã hội loài người) y như định luật vạn vật hấp dẫn của
Newton chứ không giống quy luật phủ định của phủ định, lượng đổi thành chất hay
đấu tranh giữa các mặt đối lập...kiểu các triết gia bây giờ.
Về phương
pháp luận, Triết học Lão tử giải quyết những gì?
Triết học
giải quyết thông qua tư duy trừu tượng chứ không bằng trực quan: “Nhìn
không thấy là Di, nghe không thấy là Hi, cầm không được là Vi, đó là việc của
Triết học”.
Thật lạ,
chữ Vi (微) này
theo Lão Tử có nghĩa là không cầm nắm được với chữ Vi (爲) có
nghĩa là cai trị hay làm việc lại đồng âm nhưng khác con chữ và khác nghĩa. Về
suy luận thì nó có một nghĩa, vì vậy Vô Vi có nghĩa là cai trị như
không cai trị vậy, khiến người dân (kẻ bị trị) cũng thấy thoải
mái.
“Đạo Đức”
đóng góp gì để người đọc trở thành người khôn ngoan?
Rất nhiều.
Đó là phần Đức của Đạo Đức,
Lão Tử cho
rằng thánh nhân hay người hiền nên sống phù hợp với thiên nhiên, "Thánh
nhân bất nhân". Cái ông Thánh ấy không thể đẽo cày giữa đường, bạ ai nói
gì cũng theo thì không lãnh đạo được.
Người ta phê
phán Lão Tử vì thuyết Vô Vi tức là không làm gì, nhưng Vi Hành có nghĩa là nhà
Vua đi kiểm tra sửa sang, Vi Trị tức là cai trị. Vậy Vô Vi có nghĩa lãnh đạo
một cách khôn ngoan.
Đại để Lão
tử nói về chính trị như Đại Dương mênh mông được hình thành từ giọt nước
nhỏ, rặng núi hùng vĩ hình thành từ những hạt bụi, thế thì hãy giải quyết
vấn đề mâu thuẫn khi nó còn là giọt nước hay hạt bụi li ti chứ đừng để khi
nó trở thành bão tố hay nước lụt. Một kẽ nứt có thể làm cạn cả một biển nước,
sụp đổ cả dãy núi, hãy tìm ra kẽ nứt đó để giải quyết biển nước hay trái
núi.
Cái đế
quốc Nguyên Mông chinh phục khắp Á - Âu bị sụp đổ trước quân dân Đại Việt khi
xưa, đế quốc Pháp rồi đế quốc Mỹ hùng cường trong thế kỉ 20 bị đánh bại bởi
người Việt Nam, chắc cũng như trái núi hay bể nước.
Lão Tử cũng
dạy người lãnh đạo hãy tự mình làm sao để mình cần cho xã hội như
không khí và nước uống. Hình như điều đó giống hệt Hồ Chí Minh trong
bài viết súc tích của mình "Nâng cao Đạo Đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân". Phải “tránh nhuệ khí, gỡ rối loạn, che ánh
sáng, cùng trần tục”.
Thế nào là “đồng
kỳ trần”? Nhà báo người Úc Wilfred Graham Burchett (16/9/1911 – 27/ 9/1983) đã viết: “một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có
trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những
người Việt Nam"...”Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt
Nam. Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân
miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã
được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam
– trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi
Mỹ”. Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong lòng dân Việt, không phải với tư
cách là ông Thánh mà với tư cách một người Bác, một người ông trong nhà.
Lão tử cho
rằng cái vò đặc ruột thì không chứa đồ vật được, cho nên cái
hình thể sự vật để nắm bắt, còn cái dùng được chính là cái khoảng trống bên
trong sự vật.
Ai đã từng
xem "Pháp lệnh của Chủ tịch nước VNDCCH về tự do tín ngưỡng", sẽ thấy
giống Lão Tử bàn về Lập pháp, chủ trương luật nên đơn giản, dễ hiểu, tránh
chi li quá làm người thi hành khó thực hiện và tính pháp chế vì vậy không
nghiêm minh. Như các bánh xe, phải có các nan hoa, nếu là khối đặc sẽ khó
vận động: “Ba mươi cái nan hoa tụ lại ở bầu xe, xe cộ mới đi xa được” .
Về chiến
tranh, theo Lão Tử “bất đắc dĩ phải dùng, khi dùng thì điềm đạm,
tránh cực đoan là hơn", Nếu
biết cách tiến hành chiến tranh cho đúng thì mềm sẽ thắng cứng, nhỏ sẽ
thắng to, yếu sẽ thắng mạnh. Tôn tử học đúng Lão Tử về quan
niệm này:
“Chiến
tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn
của nhà nước, không thể không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ. Phải dựa vào năm
mặt sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh các điều kiện tốt xấu giữa hai
bên đối địch, để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh: Một là Đạo, hai
là Thiên, ba là Địa, bốn là Tướng, năm là Pháp.... Tức là phải xem xét: Vua bên
nào có nền chính trị được lòng dân hơn? Tướng soái bên nào có tài năng hơn?
Thiên thời địa lợi bên nào tốt hơn? Pháp lệnh bên nào được quán triệt hơn? Thực
lực quân đội bên nào mạnh hơn? Binh sỹ bên nào được huấn luyện thành thục hơn?
Thưởng phạt bên nào nghiêm minh hơn?”... "Nguyên tắc chung khi dụng binh tác
chiến là khi phải huy động chiến xa nghìn chiếc, xe tải nặng nghìn chiếc, quân
đội mười vạn, vận lương đi xa nghìn dặm, thì chi phí ở tiền phương và hậu
phương, chi phí đãi khách khứa sứ thần, bảo dưỡng và bổ sung tiêu tốn
hàng nghìn vàng thì mới có thể cho mười vạn quân xuất chinh được. Dùng một
đạo quân khổng lồ như thế để tác chiến thì đòi hỏi phải thắng nhanh. Nếu kéo
dài thời gian, quân đội sẽ mệt mỏi, nhuệ khí sẽ suy giảm; tấn công thành trì sẽ
hao hết sức chiến đấu, quân đội tác chiến ở ngoài lâu có thể làm nền tài chính
của quốc gia gặp khó khăn. Nếu quân đội mỏi mệt, nhuệ khí suy giảm thì lúc đó
cho dù là người tài giỏi sáng suốt đến đâu cũng không thể cứu vãn tình thế
được.... Cho nên người giỏi dụng binh, lính mãn ngũ không gọi lại, lương thực
không vận tải quá 3 lần, quân nhu lấy tại nước mình, lương thực giải quyết tại
nước địch. Được vậy thì lương thảo cấp dưỡng cho quân đội sẽ được thoả mãn. Sở
dĩ quốc gia phải nghèo vì dụng binh là do vận tải lương thực đi quá xa. Vận tải
lượng thực xa, bá tánh sẽ nghèo. Chung quanh nơi quân đội tập kết, vật giá sẽ
cao vọt bất thường. Vật giá cao vọt sẽ làm cho tiền tài của bách tính khô kiệt.
Tiền tài khô kiệt tất phải gấp rút thu thêm thuế. Sức mạnh tiêu hao hết, tiền
tài khô kiệt, trong nước khắp đồng quê nhà nhà đều trống rỗng. Bách tính thì
tiền tài 10 phần hao bẩy, quốc gia thì xe hỏng ngựa mỏi mười phần hết sáu. Cho
nên tướng soái giỏi lấy lương thực ở nước địch. Ăn 1 chung gạo ở nước địch bằng
20 chung gạo ở nước nhà....”. Với 5 triệu quân Trung Quốc xâm lược
Việt Nam tháng 2/1979, CHINA NAZI phải tổn hại thế nào về sức người, sức của?
Ta xem lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ
tịch: "Hỡi
đồng bào toàn quốc, chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn
cướp nước ta lần nữa. Không, chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ....". cũng như chủ trương trường kỳ kháng chiến buộc
Pháp, Mỹ phải kiệt quệ.
Ứng dụng
của “Đạo Đức” hay Triết học Á Đông ấy có rất nhiều trong cuộc sống. “Tự
nhiên có vẻ như không làm gì nhưng việc gì cũng làm” . Hình như ông Hồ
Chí Minh cũng thế.
Hóa ra “Đạo
Đức Kinh” là một cuốn Triết học cổ đại được coi là học thuyết của người đã
từng trải, nhưng bị người đời sau thêm bớt trong suốt 28 thế kỉ nên
"tam sao thất bản", có nghĩa là mất hết nghĩa gốc.
"Các
Mác là nhà triết học phương Tây vĩ đại, nhưng phương Tây.... không phải là cả
thế giới", đó là khẳng định của Nguyễn Ái Quốc khi làm luận
văn tiến sỹ tại Đại học Phương Đông Moscou những năm 30 của thế kỉ trước; còn
sau đây là kết luận của nhà báo Úc Wilfred Burchett trong cuốn Ho Chi Minh: An
Appreciation (Hồ chí Minh – một cách nhìn nhận): “Không phải thuần túy
chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử 2000 năm chống
ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ”
Còn Stanley I. Kutler trong The
Encyclopedia of the Vietnam đã kết luận:“một nhà cách mạng ái quốc gần với
Thomas Jefferson hơn là với V. I. Lenin”. Phải, biển học vô bờ và chủ
nghĩa Mác là hệ tư tưởng mở, cứ máy móc theo từng từ trong chủ nghĩa Mác thì làm sao có Cách mạng tháng 10 và làm sao có Cách mạng tháng 8.
Suốt 27 thế
kỉ ấy, hàng tỉ người Trung Quốc, người châu Á và cả nhân loại nữa,
mày mò học hỏi lý thuyết của Lão Tử, thậm chí cả tu luyện, nhưng chưa bao giờ
tìm ra người nào hiểu chân giá trị của nó, hay trở thành "Thánh
nhân" cho đến thế kỉ 20.
Người ta
thường nói cứ 600 năm thì trời đất sinh ra một vị thánh nhân nhưng hình như
nhân loại phải chờ đợi gần gấp 5 lần số thời gian ấy.
27 thế kỉ
sau, ở tít tận nơi chân trời, ngoài cực nam đế quốc nhà Tần
(China, Chin, Kitai) nơi mà Tần Thủy Hoàng sai người đi tìm thuốc trường sinh
và đưa ra kết luận: “Thần tiên ở phương Nam”, có một
con người trở thành “Thánh” được cả thế giới công nhận, kể cả toàn bộ cư
dân mà ngày nay gọi là Trung Quốc – đó là Hồ Chí Minh với tổng kết “Đạo
Đức” Hồ Chí Minh, giống hệt “Đạo Đức” Lão Tử.
Các nhà lí
luận Việt Nam bị Tây hóa hay vọng ngoại đã từ bỏ “Đạo Đức
Hồ Chí Minh” với ý nghĩa triết học sâu sắc, đúng với nghĩa gốc của từ: Học
sự khôn ngoan.
Lão Tử nói
“Thánh Nhân”, hình như ...nói về Hồ Chí Minh chính xác với tiêu chí về “Đạo
Đức” mà ông đã bàn tới trước khi "Thánh nhân" xuất hiện
tới 27 thế kỉ.
Kính thưa
các cụ, Đạo Đức Kinh quả là cuốn sách học về sự
khôn ngoan đáng được đọc, nhưng các cụ đọc từ từ thôi.
Tái bút
Để cho nội dung khách quan, xin gửi anh chị em một
nhận xét của anh bạn mình là Tiến sỹ về Triết học:
”Cảm ơn. Mình đã nhận được. Bạn có kiến thức triết học
tuyệt vời đấy nhưng cho phép thư thư mấy ngày nữa mình sẽ trả lời vì dạo này
đang quá bận, chưa có thời gian suy tư .
Có điều nói ngay, bạn đã hiểu sai về ý nghĩa tên gọi Đạo
Đức Kinh. Đây là cuốn sách viết
về Đạo, với nghĩa là về cái mà từ đó, mọi sự vật vật chất và hiện tượng tinh thần sinh ra
và chịu sự quy định của Đạo.
Tác phẩm này của Lão Tai To không viết về đạo đức con
người, thật ra có nói đến nhưng
chỉ khuyên người ta sống Vô Vi, theo lẽ tự nhiên mà thôi”
Cho phép
mình dấu tên người tham gia ý kiến.