Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Quốc Việt K5 (ST) GIỌNG 3 MIỀN VIỆT NAM

Kính gửi anh chi em bantroi 

Nói như Xô – crát (Socrates, 469 – 339 TCN) một nhà triết học Athens cổ đại, nếu bạn cưới được người vợ hoàn mỹ, bạn sẽ trở thành nhà thơ vì cuộc đời của bạn chính là một bài thơ; Còn nếu không, bạn sẽ trở thành nhà lãnh đạo, hoặc chí ít sẽ trở thành nhà dự báo thời tiết bởi vì, sau sấm sét, ắt là có mưa dông, rồi đĩa bay, thậm chí còn hơn... 
Những nhà thơ nổi tiếng của blog như anh Hữu Thành, anh Quang Việt, anh Quang Trung ... chắc có mái ấm như mơ. 
Tất nhiên, cũng có người chẳng thích thơ hay dự báo thời tiết – đó là những nhà kinh doanh, họ là tuýp người thực tế, không thích đùa, thậm chí lạnh như băng. 
Rất thú vị xem các còm, có thể đọc ra từng người. 
Gửi anh chị em bài sưu tầm về:

GIỌNG 3 MIỀN VIỆT NAM
Trần Hiệp Thủy
Giọng Miền Bắc:
Nếu lấy Huế làm trung điểm của cán cân, ta thấy có một sự thay đổi trong giọng nói của tiếng Việt chúng ta từ Bắc vô Nam. Sự biến chuyển này ở các vùng liền nhau là tiệm tiến một cách có thể khó nhận ra. Tuy vậy, giọng nói của chúng ta có thể được phân chia thành ba miền rõ rệt: giọng Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam mà chúng ta thường gọi là giọng bắc, giọng trung, và giọng nam. Miền Bắc nói chung từ cực bắc đến tiếp giáp Miền Trung có một giọng nói thanh tao. Một tài liệu cổ của một quan lại Trung quốc báo cáo về cho triều đình Trung quốc đã mô tả rằng tiếng Việt nghe ríu rít như chim. Ông quan này đã ký âm một số từ Việt bằng chữ Trung hoa mà khi ta đọc lại theo âm Hán Việt thì không còn biết được âm thật của tiếng ta vào thời đó như thế nào nữa. Ví dụ, trong văn kiện này có từ Hán Việt đọc là đà bị để chỉ người vợ. Giọng nói nghe ríu rít như chim này nhất định là giọng Miền Bắc nước ta vì vào thời đó, Miền Trung và Miền Nam chưa thuộc về nước Việt.
Thế nhưng, ngay trong phạm vi Miền Bắc, giọng nói cũng thay đổi từ vùng này sang vùng khác. Khởi đầu từ cực bắc với Sơn tây, Lạng sơn, Cao bằng vv., giọng miền bắc có một chút “ngọng ngịu” và phát âm [L] và [N] đều thành [N], vì dụ lẫn lộn thành nẫn nộn. Giọng Hải phòng và Hà nội vẫn có một chút khác biệt, vì nghe như giọng Hải phòng nặng hơn, tuy có người cho rằng giọng Hà nội nghe có phần điệu hơn. Vòng qua Bùi chu, Phát diệm, Nam định, giọng Bắc đã nghe có âm hưởng nặng thêm chút nữa.
Ưu điểm của giọng bắc là phân biệt rõ ràng các phụ âm cuối [C] và [T], [N] và [NG] và đầu [D] và [GI]. Người Việt chúng ta phải biết ơn những người đã chế ra chữ quốc ngữ. Thật khó mà diễn tả điều chúng ta muốn nói nếu tiếng ta được ký âm bằng chữ Nôm hay lối chữ tượng hình nào khác. Người Bắc không bao giờ lẫn lộn giữa cắc (bạc cắc) và cắt (cắt thịt), khăn (cái khăn) và khăng (khăng khăng), giây (giây phút) và dây (dây dưa). Có ý kiến cho rằng “thời chưa có quốc ngữ, phân biệt âm cuối [T] và [C] không được nhấn mạnh, tại phần lớn nước Việt.” Phân biệt hay không phân biệt theo tôi là tại tiếng chứ không tại chữ, như Trần Văn Mầu viết “học tiếng, chứ không học chữ.” Tôi nghĩ là giọng Miền Bắc đã từ lâu phân biệt rõ rệt các âm như vừa trình bày, còn các miền khác cho đến nay đã có chữ quốc ngữ vẫn không được “nhấn mạnh.” Do đó, nếu nói các miền còn lại giọng nói không phân biệt các âm cuối [C] và [T] theo ký âm chữ quốc ngữ hiện thời thì phát biểu này không sai. Có hay không có cách ký âm gọi là quốc ngữ thì giọng nói của ba miền đất nước chúng ta vẫn như vậy. Một điều chắc chắn nữa, các từ với phụ âm cuối là [C] hay [T] theo quốc ngữ hiện thời, dù cách đọc khác biệt của các miền đất nước vẫn được ký âm chỉ bằng một cách viết chữ Nôm mà thôi, không phải một cho giọng bắc và một cho giọng nam. Nghĩa là, một âm được ký bằng chữ Nôm vẫn được đọc các cách khác nhau nếu có giữa các miền khác nhau. Nguyễn Du chỉ ký âm một cách duy nhất câu thơ được ký âm lại bằng chữ quốc ngữ là Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen đề được giọng bắc đọc là Chời (Giời) xanh quen thói mà hồng đánh ghen trong khi giọng Huế đọc là Trời xanh queng thoái má hồng đánh gheng.
Về âm sắc, giọng Bắc phân biệt các dấu hỏi, ngã. Điều lạ là, Alexandre de Rhodes và các giáo sĩ thừa sai hồi đó đến trước hết ở Đàng Trong tại sao lại biết được sự phân biệt hỏi, ngã của giọng Miền Bắc. Cũng nên ghi nhận là biểu tượng dấu ngã bây giờ lúc ban đầu không phải chỉ để biểu hiện cách phát âm từ thấp vút lên cao của dấu ngã mà còn để thay thế âm cuối [NG]. Trong cuốn Phép giảng tám ngày tôi còn nhớ đã viết, “Tôi càu cũ Đức Chúa Blời….” (Tôi cầu cùng Đức Chúa Trời). Phải chăng điều này cho thấy đã có sự cộng tác của những người nói giọng bắc trong việc hình thành chữ quốc ngữ bây giờ.
Nhược điểm của giọng bắc là không phân biệt [CH] và [TR] nói thành [CH], [S] và [X] nói thành [X], ví dụ Châu (châu phê) và trâu (con trâu) nói giống nhau thành châu; sanh (sanh sản) và xanh (màu xanh) đều nói thành xanh.
Giọng Miền Trung:
Bước vào Thanh Nghệ Tĩnh, giọng bắc gần như đột nhiên chỉ còn âm hưởng. Người vủng này nói nghe mai mái vẫn còn âm điệu của giọng bắc, nhưng giọng nói nặng hơn nhiều và đã xuất hiện một âm điệu khắc hẵn âm điệu Miền Bắc, và nhiều từ Miền Bắc không có. Cách riêng hai tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh, giọng nặng cho đến nổi nhiều người không quen nghe, không thể hiểu được, kể cả người thuộc vùng Bình Trị Thiên với giọng mà người khác cho là nặng. Đến Quảng bình, âm hưởng giọng bắc hoàn toàn biến mất. Giọng nói nhẹ lên nhiều so với giọng Nghệ Tĩnh, nhưng vẫn còn nặng nếu chỉ so sánh giữa ba tỉnh Bình Trị Thiên. Giọng Bình Trị Thiên nhẹ hẵn đi khi đến Thừa thiên, cao bỗng và dịu dàng theo một cách riêng.
Đặc điểm của giọng Thanh Nghệ Tĩnh Bình Trị là vẫn còn phân biệt phụ âm cuối [C] và [T], [N] và [NG], nhưng thêm vào đó còn phân biệt được [CH] và [TR], [S] và [X] mà giọng bắc lẫn lộn. Ngược lại, người vùng này hoàn toàn không phân biệt phụ âm đầu [D], [GI] và [NH]; họ chỉ nói toàn phụ âm [GI] mà thôi. Họ nói dà, già, và nhà đều thành một âm già. Vùng Thừa thiên phân biệt được [CH] và [TR], [S] và [X], nhưng phụ âm cuối [C] và [T] đều nói thành [C], [N] và [NG] đều thành [NG], ví dụ cắc và cắt đều nói cắc, man (di) và mang (vác) đều thành mang. Phụ âm đầu [D], [GI] và [NH] đều nói là [GI]. Người Thừa Thiên còn phát âm [OI] thành [OAI], ví dụ nói (năng) thành noái (năng).
Bước qua Đèo Hải vân, giọng tiếng Việt chúng ta đột nhiên khác hẵn bắt đầu từ Quảng nam. Nếu giọng từ Thanh hóa đến Thừa thiên có vẻ bình bình thì giọng từ Quảng nam trở vào cho đến Miền Nam lại bắt đầu lên xuống như giọng bắc. Bắt đầu từ Quảng nam, giọng nói giữ lại việc phân biệt và không phân biệt các phụ âm như giọng Thừa thiên, ngoại trừ [OI] thành [OAI]. [D] và [GI] đều như là [GI], ví như dây và giây đều phát âm là giây, nhưng vùng này đã phân biệt phụ âm đầu [GI] và [NH] như già và nhà.
Vùng Nam Ngãi Bình Phú lại có các cách phát âm khác nhau. Nam Ngãi không nói là kéo (dây) mà nói rị, không nói hộc (bàn, tủ) mà nói thọa, không nói (ghế) đẩu mà nói là (ghế) giuông. Nam Ngãi phát âm [AM] nghe như [OAM], ví dụ, làm nghe như loàm; [Ă] nghe như [E], ví dụ năng nghe như neng, cắc hay cắt đều nghe như kéc; [AO] nghe như [ÔU], ví dụ gạo nghe như gộu vv.
Bình Phú không nói người ta (nói rằng) mà nói nẩu (nói rềng). Âm [ĂN] hay [EN] nghe như [ÊNG] với một chút giọng mũi, ví dụ ăn nghe như êng; đèn hay đằng đều nghe như đềng với chút âm giọng mũi.
Một đặc điểm chung của khu vực Nam Ngãi Bình Phú này là sự xuất hiện của việc ghép một đại từ + ấy thành chính đại từ đó với dấu hỏi bất luận nguyên thủy với dấu gì, ví dụ anh ấy thành ảnh, cậu ấy thành cẩu, mợ ấy thành mở vv, ngoại trừ hai từ bác ấy, chú ấy có lẽ vì không thuận miệng. Đặc điểm khác là cách phát âm phụ âm đầu [V] thành [GI], ví dụ vuông thành giuông, đi vô thành đi giô, mà từ Miền Bắc vào đến Thừa thiên không có.
Giọng Miền Trung không còn phân biệt dấu hỏi dấu ngã nữa. Cả hai dấu này đều được phát âm nửa vời, không hỏi không ngã, có lúc trầm xuống gần với dấu nặng.
Giọng Miền Nam:
Miền Nam kéo dài chất giọng của giọng từ Quảng nam đổ vào nhưng không giữ lại cách cách phát âm địa phương. Giọng nam mềm mại hơn giọng của phần đất phía nam Miền Trung này. Người Miền Nam không phân biệt phụ âm cuối [C] và [T] nói thành [C], [N] và [NG] nói thành [NG]. Phụ âm đầu [D] và [GI] đều nói là [GI]. Giọng Miền Nam lại giống giọng Miền Bắc trong việc không phân biệt [CH] và [TR] nói thành [CH], [S] và [X] nói thành [X]. Đặc điểm là miền này nói các phụ âm cuối dài như [ICH], [INH] thay cho phụ âm ngằn [IT] và [IN], ví dụ, con vịch thay vì con vịt, dây nịch thay vì dây nịt, niềm tinh thay vì niềm tin. Âm đầu [R] thường phát âm là [GI], ví dụ, đi ra nói là đi gia; có vùng thành [G], ví dụ cá rô thành cá gô. Nhiều vùng không nói được âm đầu [H] mà biến thành gần như [GU], ví dụ Huế thành Guế.
Có một số từ Miền Nam dùng với nghĩa khác của hai miền kia. Ví dụ, mần ở Miền Trung có nghĩa là làm, nhưng chỉ có nghĩa là làm việc ở Miền Nam. Ví dụ, khi chúng ta nghe nói, “Sao còn chưa đi mần?” thì có nghĩa là “Sao vẫn còn chưa đi làm công việc của mình. “Ổng mần ăn lớn lắm” có mhĩa là “Ông ấy làm ăn lớn lắm.” Giọng nam cũng kết hợp đại từ + ấy thành chính đại từ ấy với dấu hỏi cùng một qui luật như vùng Nam Ngãi Bình Phú. Giọng Miền Nam không phân biệt hỏi ngã cũng như giọng Miền Trung.Đặt vấn đề:

Tôi xin đặt mấy vấn đề sau phần trình bày nhàm chán bên trên:
Thứ nhất, vẫn có tin tưởng rằng người Miền Trung và Miền Nam nói chung đều là con cháu của tổ tiên di cư từ Miền Bắc vào, khởi đầu từ biến cố Nguyễn Hoàng (Mậu Ngọ—1558 đời vua Lê Anh Tông) và các đợt di cư vì các biến cố khác sau đó. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đất nước ta thời nhà Trần chỉ mới đến hết Nghệ an, tiếp giáp với Chiêm thành về hướng nam (sđd. bản đồ tr. 127). Chúa Nguyễn Hoàng khi vào Ái tử chỉ cai quản phần đất Thuận hóa, cho đến năm Canh Ngọ 1570 mới được Chúa Trịnh giao thêm đất Quảng nam tiếp giáp Chiêm Thành. Năm Tân Hợi 1611, Nguyễn Hoàng đánh chiếm Chiêm Thành lập Phú yên. Các Chúa Nguyễn kế tiếp đánh chiếm hết đất Chiêm Thành vào năm Đinh Sửu 1697. Quan niệm người Bình Trị Thiên là con cháu mà tổ tiên đã di cư theo Nguyễn Hoàng được nhiều người mặc nhiên công nhận, như Trần Văn Mầu trong bài Giọng Huế—Giọng Quảng trị viết, “tổ tiên chúng tôi cùng Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam lên bờ cũng tại vùng Ái tử Quảng trị hiện nay!”
Đi theo Nguyễn Hoàng chắc chắn là người Miền Bắc và nói giọng bắc. Nếu cả một vùng bao la, mọi người đều đã từ Miền Bắc di cư vào thì điều gì đã làm cho họ biến đổi giọng nói cách khác thường như vậy khi vượt qua Hoành sơn nhất đái tức là Đèo Ngang thuộc Quảng bình? Vùng đất thuộc Chúa Nguyễn lúc bấy giờ chưa có người Việt ở hay chỉ có một số ít?
Tôi cho rằng không; vùng này đã có người Việt ở từ trước mà còn là đông hơn số người từ Miền Bắc di cư vào. Quan sát hiện tượng người Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, chúng ta có thế nhận xét: (1) Nơi nào số đông người Miền Bắc qui tụ vào một nơi như Hố nai, Gia kiệm, họ vẫn nói giọng bắc rõ rệt đến mấy đời sau vẫn còn; (2) Nếu chỉ một số rất ít, ví dụ một gia đình, vây quanh bởi số đông người nói giọng nam thì có thay đổi trong giọng nói, ngay từ đời thứ nhất đã lai giọng. Một hai đời sau, con cháu họ hoàn toàn không nói giọng bắc nữa. Một làng chài lưới ở đảo Tri thủy, Phan rang, phía bắc quê hương cố Thổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vốn từ Quảng bình “chạy giặc Văn thân” vào, vẫn nói giọng Quảng bình của họ mà không lai giọng Phan rang vì toàn làng đều nói một giọng. Thế nhưng, lớp trẻ khi tôi được may mắn tiếp xúc vào những năm 1960 đã bắt đầu lai giọng Phan rang vì họ đã bắt đầu tiếp xúc ra ngoài (đi học, đi làm vv).
Từ nhận xét thô thiển đó, ta có thể suy ra vùng từ Thanh hóa đổ vào cho hết phần đất thuộc Chúa Nguyễn, nước ta đã có người Việt ở đó, mà là đa số. Đa số này có giọng nói riêng biệt và từ vựng riêng biệt ngoài số tiếng Việt chung (Trong số từ vựng riêng biệt đó, có các từ mà tôi tạm gọi là tiếng Quảng trị chứ không phải vay mượn từ ai khác nếu không nói là đã cho người khác vay mượn). Và do đó không phải tất cả con cháu Bình Trị Thiên đều có tổ tiên đã theo Chúa Nguyễn Hoàng di cư vào. Vậy, những người Việt nguyên thủy ở vùng này, họ là ai? Và họ liên hệ thế nào với người nói giọng bắc để cùng có chung một tiếng Việt nhưng với giọng nói khác?
Thứ hai, điều gì đã làm cho người Việt nguyên thủy từ Thanh hóa đổ vào nói tiếng Việt với giọng khác với giọng bắc, và khác nhau rõ rệt giữa các khu vực thuộc vùng này với nhau? Như nhận xét thô thiển về giọng bắc ở mục bên trên cho thấy: Miền Bắc với giọng bắc dù có khác biệt đôi chút vẫn giữ âm hưởng giọng bắc. Miền Trung trái lại, sự khác biệt giữa các khu vực quá rõ rệt đến nổi có thể chia thành các nhóm khác nhau gần như bước nhảy vọt không có chuyển tiếp.
Thứ ba, giọng Miền Nam có phải là pha trộn giữa giọng bắc và giọng trung từ Quảng nam đổ vào không? Người Miền Nam hiện nay cho tất cả những ai không nói giọng nam đều là người “Guế” (người Huế). Cách phát âm của giọng nam cơ bản giống giọng Quảng nam đổ vào. Điều gì đã hình thành giọng nói đó?
Kết:
Các câu hỏi mà tôi nêu ra trên được ông cha chúng ta đi trước trả lời cách đơn giản là giọng nói khác đi là do thổ nhưỡng. Nói cách khác, cha ông chúng ta trả lời người Miền Bắc khi đến Thanh hóa sở dĩ nói giọng Thanh hóa là vì họ uống nước tại đất Thanh hóa; người nơi khác đến Quảng nam nói giọng Quảng nam vì đã uống nước đất Quảng nam! Đến bây giờ thì câu trả lời như vậy không thể nào trả lời được nữa. Người Việt di cư đến California đâu có nói giọng California mà vẫn nói giọng của gia đình và nhất là giọng của đa số người Việt sinh sống tại vùng họ đang cư ngụ.
Tôi cho rằng biến chuyển giọng nói của tiếng Việt chúng ta còn có thể được dùng cách sâu xa để giải thích nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Chúng ta từ đâu mà đến hay vốn đã có ở đó. Như ngay từ đầu tôi đã thú nhận sự dốt nát của tôi về khoa học này, tôi xin thú nhận lại sự dốt nát của tôi ở đây. Bài này chẳng qua cũng chỉ là lời quê góp nhặt dông dài. Có điều tôi không biết liệu có mua vui được cho ai giây phút nào hay không, chứ không dám nói như thi hào Tiên Điền cũng được một vài trống canh vì phận tôi không dám tham lam như thế.
-----------------------------------

Relax chút với bài thơ vui về sự khác nhau giữa cách nói của người Miền Bắc và người Miền Nam nhé:
Bắc than Gầy thì Nam bảo Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh hay Ðau
Bắc Cuốc nhanh, Nam Ði bộ mau mau
Bắc bảo Muộn thì Nam cho là Trễ
Nam Mần sơ sơ Bắc Làm lấy lệ
Bắc Lệ trào Nam Chảy nước mắt ra
Bắc nói Úi Chà, Nam kêu Ui Da
Bắc Bước vào kia, Nam Ði vô trỏng
Nam kêu Vạc Tre, Bắc là Cái Chõng
Nam Trả Treo, Bắc Lý Luận ngược xuôi
Nam biểu Vui Ghê, Bắc nói Buồn Cười
Bắc chỉ Thế Thôi, Nam là Vậy Ðó
Nam làm Giỏ Tre, Bắc đan cái Rọ
Nam Muỗng cà phê, Bắc gọi cái Thìa
Nam Muỗng canh, Bắc gọi cái Cùi dìa
Nam Ði tuốt, thì Bắc Lìa xa mãi
Nam Nói Dai, Bắc cho là Lải Nhải
Nam kêu Xe Hơi, Bắc gọi Ô Tô
Nam xài Dù, thì Bắc lại dùng Ô
Nam Ði trốn, Bắc cho là Lánh mặt
Nam là Hơi Mắc, Bắc là Khá Ðắt
Nam Mần Ăn, thì Bắc cũng Kinh Doanh
Nam Chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh.
Nam biểu Từ Từ, Bắc khuyên Gượm lại
Nam Ngu Ghê, còn Bắc là Quá Dại
Nam Sợ Ghê, Bắc thì Hãi Quá đi
Nam Nói Gì ? Bắc hỏi Dạ bảo chi
Nam kêu Trúng Lắm, Bắc bàn Chí Phải
Bắc gọi Thích ghê, Nam kêu là Khoái
Bắp Nam kêu hái, Bắc bảo Vặt Ngô
Bắc thích cứ Vồ, Nam ưng là Chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi ! Bắc rên: cút xéo
Bắc bảo: cứ véo ! Nam: ngắt nó đị
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn !
Bắc nói tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc nói khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam chê thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi !
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Bắc kéo xe lôi, xích lô Nam đạp
Bắc bảo cao to Nam cho là lớn
Ðùa mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt đã nhiều, Nam kêu là xạo
Nam thời mập bạo, Bắc bảo béo ghê
Bắc bảo sướng phê, Nam rên đã quá !
Bắc hay đi phá Bắc đả bằng gươm
Nam chọc bị lườm, kiếm Nam, Nam thọt
Bắc ngồi bia bọt, Nam nhậu lade
Bắc bùi bùi lạc rang, Nam thơm thơm đậu phụng
Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét "hổng chịu đèn", Bắc vặn mình "em chả"
Bắc giấm chua "cái ả", Nam bặm trợn "con kia"
Nam chửi "tên cà chua", Bắc rủa "đồ phải gió"
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Quang Thuong Hai
Suu Tam

Cùng là chất giọng miền Nam, không khác mấy Sài Gòn, nhưng nghe dân miền Tây chính gốc phát âm là nhận ra ngay quê tôi: Con cá gô bỏ dô gổ kêu gột gẹc.
Có người nói, giọng miền Tây “rặt” nghe dân dã, bình dị và dễ thương lắm. Bạn bè tôi dân miền Trung, miền Bắc, những năm tháng sinh viên “choảng” nhau vì “nhạy giọng” (chửi cha không bằng pha tiếng mà!), nhưng xa nhau mấy mươi năm vẫn nhắc hoài cái chất giọng chân chất, giọng miền Tây! Nhiều người miền Tây xa quê mấy mươi năm, hàng ngày nói tiếng Tây, tiếng Tàu hay đã pha tạp chất giọng của các vùng miền khác, nhưng chỉ cần đôi ba tuần sống hòa mình với chốn xưa, lại trở về cái chất giọng của cố hương.
Cùng là dân miền Tây, nhưng người Bến Tre, lại nói âm giọng “Bến Te”; cùng là người Cần Thơ, nhưng miệt Thốt Nốt lại nói “ăn cơm dzồi”. Đặc biệt, miền Tây có nhiều từ ngữ “đặc sản” chỉ vùng này mới có. Sự giao thoa ngôn ngữ Việt - Hoa - Khmer như món lẩu mắm của xứ này (cái lẩu – tiếng Hoa, món mắm – người Kinh, Khmer đều quen dùng).
Người miền Tây hay nói “xấu quắc” để diễn tả rất xấu, xấu lắm. Hay để biểu thị sự giống nhau, thường nói “y hệt”, “y chang”. Bạn bè thân nhau, gọi là “ní” (nị, ngộ) – đều có gốc từ tiếng Hoa. Nhưng cũng có nhiều từ là sự “giao thoa ngôn ngữ Việt – Khmer: Gặp một em gái miền Tây đi đâu một mình, hỏi: “Em đi với ai?”, trả lời: “Dạ, em đi mình ên”. Thì ra trong tiếng Khmer, “êng” có nghĩa là “một mình”. Ca sĩ, nhạc sĩ Đình Văn có bài hát rất hay “Buồn mình ên."
Qua ngõ nhà em, thương lắm rồi mà làm bộ dửng dưng (một chút làm cao), không rẽ vào nhà mà đi qua luôn, gọi là “đi huốt” – cũng có gốc từ tiếng Khmer. Dân miền Tây hào hiệp, phóng khoáng, sống luôn mở rộng lòng mình (chơi thì xả láng, sáng về sớm), nên không câu nệ khi dung nạp từ ngữ của người khác, há gì những cộng đồng người từng gắn bó với mình từ thuở khai hoang, mở đất, rồi sống chết giữ gìn từng mảnh ruộng, bờ mương qua bao cuộc chiến tranh.
Người miền Nam nói chung và dân miền Tây nói riêng không dùng lẫn lộn các từ “đắc” và “mắc”, “vay” và “mượn”. Bán “mắc” là bán hàng giá cao hơn giá trị thực, còn bán “đắc” là đông khách hàng đến mua. Anh em giúp đỡ nhau chút ít tiền gọi là “cho mượn”, không bao giờ nói là “cho vay” – có tính lãi (do dân miền Tây sớm hội nhập với kinh tế thị trường, quá rành các nguyên tắc giao dịch trong luật dân sự chăng?). Nếu để ý, người miền Tây có cách dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba trong tiếng Việt rất đơn giản (không cần thêm từ) mà dễ hiểu; thí dụ như để chỉ anh ấy, chị ấy, ông ấy, em ấy, bà ấy,... họ nói ảnh, chỉ, ổng, ẻm, bả – gọn thế là xong.
Tiếng miền Tây chân chất, đơn giản, cũng dễ hiểu, dễ nói, nhưng khó viết một chút; nếu phiên âm nguyên xi thì sai lỗi chính tả. Người Việt do đặc điểm tiếng nói và tư duy ngôn ngữ khác (ngôn ngữ đơn âm tiết, nói chuyện uốn lưỡi bảy lần) nên nói chung học ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga – thuộc ngôn ngữ đa âm) rất cực. Ngoại ngữ là một trong những yêu cầu rèn luyện của mọi người, nhất là giới trẻ, doanh nhân, nhưng giới trẻ ngày nay hội nhập vào nhiều nền văn hóa, học nhiều, biết nhiều ngôn ngữ quốc tế (nhất là tiếng Anh, tiếng Hàn), đã cung cấp thêm vốn từ “ba rọi”, nửa nạc nửa mỡ nghe cũng vui tai nhưng thấy kỳ kỳ.
Nhiều người báo động sự phong phú, giàu đẹp và trong sáng của tiếng Việt đang đứng trước nguy cơ “xâm lăng” của ngôn ngữ ngoại lai. Giọng nói, từ ngữ vùng, miền cũng không nằm ngoài nguy cơ đó.

5 nhận xét:

  1. Anh QV đúng là nhà lãnh đạo, nói như anh thì các nhà thơ đều có vợ hoàn mỹ à ?
    Mà có khi thế thật, trừ anh HT khi có vợ hoàn mỹ, nhưng không phải nhà thơ.

    Trả lờiXóa
  2. Em thấy ko có mối liên hệ nào giữa vợ hoàn mỹ với người làm thơ hết. Bằng chứng là Cụ Hồ, thi sỹ Xuân Diệu...đều là nhà thơ mà có cần món kia đâu.
    NN

    Trả lờiXóa
  3. NN: có đấy chứ.
    Không nói tới Cụ Hồ vì Cụ giờ là Thánh rồi.
    Về thi sỹ Xuân Diệu, ngài có nhiều vợ con lắm, họ đều là hiện thân trong mơ thôi.

    Trả lờiXóa
  4. Cám ơn bạn và anh TK5 chỉ ra cái sai của nhà triết học cổ đại đó, nhưng đấy mới là vế 1, còn 2 vế nữa vẫn đúng.
    Nếu người ta phải chịu đựng bão tố suốt thì còn cảm hứng gì để làm thơ, cũng như nhà kinh doanh, tiếng anh rất hay vì chỉ ra con người bận bịu.
    Mà khi bạn mình có cuộc sống đẹp như mơ thì chúng ta cùng mừng cho bạn chứ sao.

    Trả lờiXóa
  5. Chẳng có bài viết nào của QcV mà mình không đọc từ đầu đến cuối mặc dù viết rất dài và ít thời gian.
    Người Việt Nam không có thói quen ngồi viết nhật ký, nên nhiều người "từ khi tôi sinh ra nó đã như thế này".
    Tất nhiên những lịch sử cận đại mọi người đều biết, những lịch sử xa hơn nữa phải dựa vào nhiều nguồn.
    Ngôn ngữ nào cũng có những từ vay mượn của ngôn ngữ khác, nhưng có 1 điều chắc chắn là "từ mũi Cà Mâu đếm Mục Nam Quan" tất cả mọi người đều nói 1 ngôn ngữ: tính từ đứng đằng sau danh từ.

    Trả lờiXóa

Đọc kỹ trước khi comment
Bạn Trỗi là những người chính trực, vì vậy bạn cần dùng chính danh để viết nhận xét. Bạn có thể click vào tiêu đề bài viết để xem toàn bài, ô cửa sổ cuối bài là nơi để bạn viết nhận xét của mình. nếu chưa có danh khoản Google, bạn có thể điền danh tính vào mục:Tên/URL để xuất bản nhận xét, các lời góp ND đều bị Google cho là spam và tự động bị xóa.
Các bạn có thể chèn Ảnh hoặc video clip trực tiếp vào Phần nhận xét bằng cách copy URL ảnh gốc rồi dán vào cửa sổ comment