Anh chị em và bantroi thân,
Đọc Sử liệu - khô khan lắm, mặc dù thỉnh thoảng thì
hay nhưng nhiều quá thì mệt mỏi.
Xin gửi tới anh, chị, em và các bạn, bài chính luận
của giáo sư Trần Chung Ngọc để ta cùng thưởng thức, tác giả đã giwosi thiệu về
mình,:
VÀI
NÉT VỀ “CỤ HỒ”
Trần
Chung Ngọc
PHẦN 1
Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là
không dễ. Đối với những người thuộc giới Chống Cộng Cực Đoan [CCCĐ] hay Chống
Cộng Cho Chúa [CCCC], viết theo cảm tính thù hận Quốc Gia chống Cộng, hay Công
Giáo chống Cộng, trong khi thực sự không hiểu, không biết gì về Hồ Chí Minh thì
rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với
xuyên tạc, dựng đứng v..v.. nhằm “ám sát tư cách cá nhân” (character
assassination), bằng những từ tục tĩu, hạ cấp v..v.. cho hả lòng thù hận, thì
có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không
cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Thảm thay, hiện tượng này chúng ta
thường thấy xảy ra trong vài khu rừng diễn đàn truyền thông hải ngoại, nơi đây
một thiểu số người Việt có vẻ như không có mấy trình độ văn hóa, giáo dục
thường lên tiếng. Nhưng viết cho đúng với nhân cách, khả năng, tư tưởng và con
người của Hồ Chí Minh thì quả thật là khó, vì điều này đòi hỏi trước hết là một
sự lương thiện trí thức, một sự hiểu biết đứng đắn về cuộc đời của ông Hồ, và
nhất là, về ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam.
Riêng
đối với tôi, viết về ông Hồ lại càng khó hơn, vì xuất thân từ Trường Sĩ Quan
Trừ Bị Nam Định, đã cầm súng chống Cộng trong thời gian 8 năm rưỡi, khoảng thời
gian tôi ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đi Mỹ học, và đã về phục vụ
trong ngành giáo dục ở miền Nam cho đến ngày chót, đương nhiên tôi đã ở phía
Quốc Gia rồi. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã chấm dứt hơn 30 năm rồi, bây giờ
còn nói đến chuyện Quốc – Cộng có phải là ngớ ngẩn không? Thời gian chỉ trôi có
một chiều, một thế hệ già nua như chúng tôi đang lần lượt rủ nhau đi vào dĩ
vãng để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ hơn, đầy nhiệt huyết, với những kiến thức
thời đại, biết thế nào là con đường quốc gia, dân tộc, và dứt khoát từ chối,
không để cho đầu óc bị ô nhiễm bởi những thù hận của lớp trước, dù các bậc cha
anh vô trí có muốn truyền lại. Với tâm cảnh như trên, vậy tôi phải viết về ông
Hồ ra sao? Viết theo sự hiểu biết giới hạn của mình thì rất có thể “sai đường
lối của một số người đang tham gia cuộc “thánh chiến chống Cộng”” và phải đội
thêm vài cái nón cối nữa. Nhưng chẳng sao, tôi ở xứ lạnh, mùa Đông sắp đến,
càng ấm đầu.
Được
đào tạo trong ngành Khoa Học Vật Lý, đối với tôi, sự lương thiện trí thức phải
để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để
cho tình cảm thiên kiến lôi cuốn, tuy tôi tự biết, vì không có cái mặc cảm của
Thượng đế (God complex), nên tôi không thể tránh khỏi có đôi chút thiên kiến
khi viết về lịch sử. Một người nào đó đã chẳng từng nói: “Người nào viết sử mà
không có đôi chút thiên kiến chắc phải có cái mặc cảm mình là Thượng đế (hay
mặc cảm của Thượng đế) [Those who write about history without bias must have a
God complex]. Để giảm thiểu thiên kiến, phương pháp khảo cứu của tôi là đọc
nhiều sách về cùng một vấn đề, rồi từ đó kiếm ra một mẫu số chung. Điều này
chưa hẳn là tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cũng không xa sự thực là bao nhiêu.
Riêng
về ông Hồ, đọc những tài liệu của giới CCCĐ hay CCCC ở hải ngoại thì cũng như
không đọc, vì không biết thêm được điều gì mới lạ, ngoài những cường điệu chứng
tỏ trình độ thấp kém về lịch sử của người viết. Còn dùng những tài liệu trong
nước, phải gội đầu sẵn để đội thêm vài cái mũ của những kẻ không hề biết lý
luận, không có khả năng thảo luận trí thức. Không phải là trong những tài liệu
thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” này không có những chi tiết đúng, nhưng những chi
tiết này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kho tàng tài liệu ngày nay trên thế
giới, từ tác phẩm của những nhà nghiên cứu trong môi trường đại học, các chính
khách, cựu tướng lãnh v..v…, và từ các tài liệu có trong các văn khố của một số
quốc gia. Vậy thì tốt hơn hết là đi tìm tài liệu không thuộc hai phe Quốc,
Cộng.
Bài
viết này không có mục đích viết tất cả về ông Hồ Chí Minh, tôi không có khả
năng như vậy. Nhân đọc loạt bài ông Minh Võ phê bình cuốn “Ho Chi Minh,
A Life” của William J. Duiker cùng đọc bài khảo cứu, có thể nói là một
bài giáo khoa của giáo sư Sử học Nguyễn Mạnh Quang, về những vị lãnh đạo Việt
Nam trong thời cận đại như Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn
Thiệu, đăng trên giaodiemonline.com tháng 11, 2006, tôi chỉ muốn bổ túc và thu
hẹp trên một vài khía cạnh về ông Hồ Chí Minh: vị thế của ông Hồ Chí Minh trên
chính trường quốc tế, trong lòng dân tộc Việt Nam, và nhất là, phải chăng ông
là người Cộng sản cực đoan, tay sai của Nga Sô và Trung Cộng như một số người
chống Cộng cực đoan ở hải ngoại, điển hình là ông Minh Võ, thường rêu rao.
Còn
những con cờ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu của Pháp và Mỹ thì có
lẽ không cần phải nhắc tới. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết quá đủ về những
nhân vật này rồi, nhất là về ông “Phán Quan Tây Ban Nha” Ngô Đình Diệm.(Link: http://www.giaodiemonline.com/nov/chuong18.htm )
Trước
khi đi vào những vấn đề này, tôi có một nhận xét tổng quát về những luận điệu
xuyên tạc, đả kích ông Hồ Chí Minh của một số người có vẻ như không có mấy
trình độ. Không có gì ngu xuẩn hơn là so sánh ông Hồ với Hitler. Những người
này hầu như không hề biết gì đến dư luận thế giới, nhất là trong các nước tiến
bộ Âu Mỹ, đã nhận định về ông Hồ Chí Minh như thế nào. Hãy vào Internet đánh
tên Ho Chi Minh thì sẽ thấy Thế giới đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào. Hay hãy
đọc những cuốn sách về chiến tranh Việt Nam của các học giả, tướng lãnh Mỹ, và
ngay cả hai cuốn In Retrospect và Argument Without End của
cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. Phần nhận định tích cực về Hồ Chí
Minh tràn ngập so với phần tiêu cực thưa thớt của một số người Việt hải ngoại
mà tên tuổi không đáng kể, và chỉ như những con đom đóm lập lòe trên vài diễn
đàn điện tử ít có giá trị trí thức của đám người Việt còn mang nặng lòng hận
thù Quốc-Cộng, chống Cộng cuối mùa, chống Cộng khi đã không còn Cộng..
Và
những người muốn hạ bệ Hồ Chí Minh để vinh danh “chí sĩ” Ngô Đình Diệm của họ
nhân dịp 1/11 thì hãy kiếm đọc cuốn “Những Bạo Chúa, 100 Tên Chuyên Quyền và Độc Tài Ác Nhất Trong Lịch Sử” (Tyrants,
History’s 100 Most Evil Despots and Dictators) của Nigel Cawthorne, Barnes
& Noble, NY,2004, trong đó
chúng ta có thể thấy những tên quen thuộc như Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi,
Richard III, Mary I, Ceasar Borgia v..v.. và trong thời cận đại: Hitler, Mao
Trạch Đông, Stalin, Pol Pot, Sadam Hussein, Kim Jung II, và, lạ lùng thay, có cả tên Ngô Đình Diệm (President
of South Vietnam) mà lại không có
tên Hồ Chí Minh trong danh sách này. Mỗi tên trong danh sách đều có
kèm theo một tiểu sử ngắn và sơ lược những hành động chuyên quyền và độc tài
của nhân vật đó. Thế này là thế nào, chẳng có lẽ Nigel Cawthorne cũng như nhiều
trí thức Tây phương đều là tay sai của CSVN, hay là những người ngu cả hay sao?
Cách
đây sáu năm, năm 2000, sử gia William J. Duiker có xuất bản cuốn “Ho Chi
Minh, A Life”. Cuốn này được giới trí thức, học giả Âu Mỹ đánh giá khá cao
và cho rằng đó là một cuốn nghiên cứu sâu rộng nhất về con người và sự nghiệp
của ông Hồ Chí Minh. Đọc Duiker và phối kiểm với những đoạn viết về ông Hồ của
nhiều tác giả khác trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể rút tỉa ra những
điều không xa với sự thật là bao nhiêu.
Trước
hết, quốc tế đối với ông Hồ ra sao? Tôi xin được nhắc lại một đoạn trong bài
của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà giáo sư đã trích dẫn từ cuốn “Ho Chi
Minh” của William J. Duiker:
“Khi
tin tức về cái chết của ông Hồ Chí Minh được loan truyền thì khắp địa cầu đưa
ra nhận xét về ông. Hà Nội nhận
được tới hơn hai mươi hai ngàn (22000) bức điện tín từ các thủ đô lớn của 121
quốc gia trên thế giới để bày tỏ lời ca ngợi ông và chia buồn với nhân dân
Việt Nam . Một
số các nước theo chủ nghĩa xã hội tổ chức buổi lễ truy điệu ông và đưa ra những
lời ca tụng ông. Thủ đô Mạc Tư Khoa chính thức ca tụng ông như là “người con vĩ
đại của dân tộc anh hùng Việt Nam, một người lãnh đạo xuất sắc của phong trào
giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, và là người bạn vĩ đại của Liên Bang Sô
Viết.” Các nước trong Thế Giới Thứ
Ba (các nước trung lập) cũng nhận xét về ông với những lời ca tụng ông như là
một người bảo vệ những người bị áp bức. Một bài báo phát hành ở Ấn Độ mô tả ông như là tinh túy của “dân tộc và
là hiện thân của lòng khát vọng tự do, của sự tranh đấu bền bỉ.”Những bài báo
khác đề cao đức tính giản dị và thẳng thắn của ông. Một bài xã luận
trong một tờ báo ở Uruguay (Nam
Mỹ) ghi nhận “Ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và có một tình thương vô bờ
bến đối vào các trẻ em. Ông là
gương mẫu về đức tính giản dị và thẳng thắn trong tất cả mọi phạm vi.”
Phản
ứng từ các thủ đô Tây Phương thì không biểu lộ mạnh mẽ. Tòa Bạch Ốc lặng thinh
và các viên chức cao cấp trong chính quyền của Tổng Thống Nixon cũng không bình
luận gì cả. Nhưng việc chú ý đến
cái chết cúa ông Hồ Chí Minh đối với giới truyền thông trong các nước Tây
Phương thật là mãnh liệt. Những tờ báo ủng hộ các phong trào phản
chiến có khuynh hướng mô tả ông bằng những lời lẽ ca tụng ông như là một địch
thủ xứng đáng và là một người bảo vệ những kẻ yếu, những người lép vế thế cô và
những người bị áp bức. Ngay cả
những người vẫn thường khăng khăng chống lại chế độ Hà Nội cũng đánh giá ông
bằng những lời lẽ kính trọng ông như là một người đã tận hiến cả cuộc đời cho
đại cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước cho tổ quốc ông, coi
ông như là người phát ngôn xuất chúng cho các dân tộc bị bóc lột ở trên thế giới.”
Nguyên văn: (“The news of Ho Chi Minh’ s death was greeted
with a outpouring of comment from around the globe. Eulogies flowed in from
major world capitals, and Hanoi
received more than twenty-two thousand messages from 121 countries offering the
Vietnamese people condolences for the death of their leader. A number of
socialists states held memorial services of their own and editorial comment
were predictable favorable. An official statement from Moscow
lauded Ho as a “great son of the heroic Vietnamse people, the outstanding
leader of the international Communist and national liberation movement, and a
great friend of the Soviet Union .” From the Third World countries came praise for his role as a
defender of the oppressed. An article published in India described him as the essence
of “the people, the embodiment of the ardent aspiration for freedom, of their
endurance and struggle.” Others referred to his simplicity of manner and high
moral standing. Remarked an editorial in Uruguayan newspaper: “He had a heart
as immense as the universe and in a boundless love for the children. He is a
model of simplicity in all fields.”
Reaction
from Western capitals was more muted. The White House refrained from comment,
and senior Nixon administration officials followed suite. But attention to Ho’s
death in the Western news media was intense. Newspapers that supported the
antiwar cause tended to describe him in favorable terms as a worthy adversary
and a defender of the weak and oppressed. Even those who had admandtly opposed
the Hanoi regime accorded him a measure of respect as one who had dedicated
himself first and foremost to the independence and unification of his country, as
well as a prominent spokeperson for the exploited peoples of the world.”) [Đây
là đoạn đầu của Chương cuối: “Epilogue: From Man To Myth” ,
trang 562. TCN]
Trên
đây, Duiker đã viết lại một sự
kiện. Sự kiện này, hơn gì hết, đã loại bỏ tất cả những gì mà một số
người Việt hải ngoại hay ở trong nước viết tiêu cực theo cảm tính về ông Hồ.
Cho nên bất kể những luận điệu nhằm hạ uy tín của ông Hồ đều không thể thuyết
phục được ai, ít nhất là trong giới hiểu biết, nhất là những luận điệu này lại
thuộc loại hạ cấp, đầy hận thù, vụn vặt, chỉ nhắm vào những tiểu tiết mà không
nhìn thấy những mặt to lớn của sự việc, và chỉ có thể lấy được sự đồng tình của
một số người nhỏ nhoi thu hẹp trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại..
Có
một bài viết về ông Hồ Chí Minh của Wilfred Burchett khá hay: Ho Chi
Minh: An Appreciation (pipeline.com). Wilfred Burchett là một ký giả
Úc nổi tiếng, đã từng được Ngoại Trưởng Henri Kissinger nhờ làm trung gian liên
lạc giữa Mỹ và Hà Nội. Năm 1968, ông đã viết một cuốn có tính cách tiên
đoán: “Việt Nam Sẽ
Thắng” (Vietnam Will Win) và năm 1977 ông xuất bản cuốn “Châu
Chấu Và Voi: Tại Sao [Nam ]
Việt Nam
Sụp Đổ” (Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell). Theo tôi,
Burchett viết hay, không phải vì tác giả ca tụng ông Hồ, mà tác giả đã viết về
những gì đã tạo nên ông Hồ: Không
phải thuần túy chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử
2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ. Có thể
nói, tác giả hiểu Việt Nam hơn rất nhiều người tự cho mình là trí thức. Chúng
ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Burchett:
“Chính
sách của Mỹ là làm cho người Việt Nam cảm thấy mình thuộc một sắc dân
thấp kém (racial
inferiors), không có quyền về căn cước quốc gia (have no right
for national identity). Họ thường bị gọi là “gooks”, “slopes” và
“dinks”, và trên những phúc trình chính thức, làng Mỹ Lai trở thành “Thành phố
hồng” (Pinkville) [có nghĩa là thành phố Cộng Sản] và dân làng
bị tàn sát chỉ là “những người Á đông” (oriental human beings). [với ý
coi thường, miệt thị]
Sự thực là người nông dân Việt Nam nghèo khó
nhất, ngay cả thất học, về phương diện văn hóa và đạo đức thường cũng cao hơn
người Mỹ (Reality
is that the humblest Vietnamese peasant, even illiterate, is usually culturally
and morally superior to his American adversary.). Hắn ta biết nhiều hơn
về lịch sử đất nước của hắn – không chỉ vì đất nước hắn có vài ngàn năm lịch sử
nhiều hơn Mỹ để mà biết đến – mà vì những điều này đã thấm vào trong người hắn
từ sữa mẹ (literally absorbs it with his mother’s milk). Ngay
từ bé, hắn sống lên trong một môi trường tràn ngập với những câu chuyện về gia
tài lịch sử, hoặc được kể ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, hoặc qua những màn
kịch diễn lại những trang sử oai hùng của 2000 năm lịch sử chống ngoại xâm của
những gánh hát di động, hoặc những truyền thuyết về các “thần hoàng
làng”, [thường là các anh hùng giúp nước của xóm làng, được nhà Vua
sắc phong], hoặc là những câu chuyện về tổ tiên đã bảo vệ non sông như
thế nào, hoặc là những chuyện đau khổ của người dân bị đàn áp bởi ngoại nhân
nên đòi hỏi một sự đứng lên để chống đối v..v… Sự hiểu biết về 2000 năm tranh
đấu chống kẻ xâm lăng có đầy trong dòng máu của người nông dân chân lấm tay bùn
nghèo khó nhất. Chỉ một điều này cũng là một nguồn dũng cảm và sức chịu đựng vô
tận, một sự tin tưởng vào tương lai và coi thường những kẻ toan tính phá vỡ những
đức tính mà những chuyên viên trong cái “hồ tư duy” (think tank) [của
Mỹ] không thể hiểu được (The knowledge of two thousand years'
struggle against invaders is in the bloodstream of the humblest, mud-stained
peasant. This alone is an inexhaustible source of courage and stoicism; of
confidence in the future and contempt for those who try to wreck the
present-qualities incomprehensible to the "think tank" specialists.).
Ông
Hồ Chí Minh là mẫu mực thu nhỏ của tất cả những điều trên. Và đúng là, cũng như một cái gì đó trong mỗi người Việt
Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu
hết những người Việt Nam ngày nay, dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là
sâu đậm (Ho Chi Minh epitomizes all this. And just as there was something of every Vietnamese in Ho Chi Minh so
there is something of Ho Chi Minh in almost every present-day Vietnamese,
so strong is his imprint on the Vietnamese nation.) .
Một
vấn đề mà Tổng thống Nixon cũng như các vị tiền nhiệm có thể không lưu ý đến
nhưng chắc chắn là dân Việt Nam không thể không biết, đó là Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia
Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không
có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa
Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận
là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan
thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ. (No line arbitrarily drawn along the
17th parallel could divorce the people of the South from Ho Chi Minh because
his capital happened to be on the northern side of the line. Ho Chi Minh was
the accepted leader and source of inspiration for all Vietnamese - except the
handful who served Japanese, French and American masters in turn.)
Lẽ
dĩ nhiên, một số người Việt “Quốc Gia” ở hải ngoại không thể đồng ý với nhận
định trên, điều này có lẽ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Nhưng trên phương
diện nghiên cứu trí thức, một câu hỏi cần được đặt ra: có bao nhiêu phần đúng
trong nhận định của Burchett? Nếu chúng ta thuộc lịch sử Việt Nam , nếu chúng ta biết đến những truyền thống
trong xã hội làng mạc Việt Nam ,
nếu chúng ta để tâm nghiên cứu về hai cuộc chiến ở Việt Nam , với Pháp rồi với Mỹ, thì có lẽ
chúng ta không cần đặt ra câu hỏi trên.
Vấn
đề tiếp theo tôi muốn nói đến là: ông Hồ Chí Minh là con người Cộng Sản như thế
nào? Chúng ta biết rằng, ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ phủ nhận mình là người
Cộng Sản và đã từng khẳng định là Lenin đã gây cảm hứng cho ông trong công cuộc
giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng muốn hiểu ông Hồ là người Cộng sản như
thế nào, có lẽ chúng ta nên biết đến quan niệm của một số trí thức ngoại quốc,
những người thường ở trong môi trường đại học, đặt sự tôn trọng sự lương thiện
trí thức lên hàng đầu, và vì chính uy tín của họ, nên không thể viết theo cảm
tính mà không nghiên cứu kỹ vấn đề, hay tự hạ mình rơi vào vòng tranh chấp Quốc
- Cộng mà họ không thuộc phe nào và không có lý do gì để ủng hộ hay chống đối
một phe nào..
Chúng
ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Stanley I. Kutler điểm cuốn “Ho Chi Minh, A
Life”, Kutler là tác giả cuốn "The Wars of Watergate" và
là chủ biên của "The Encyclopedia of the Vietnam War." .
Stanley Kutler cho rằng trong tác phẩm của mình, Duiker đã viết về một nhà cách mạng ái quốc gần với Thomas
Jefferson hơn là với V. I. Lenin [A
patriot closer to Thomas Jefferson than to V.I. Lenin]. (Điều này, không phải
chỉ có mình Duiker mới nhận định như trên, mà một số tác giả Mỹ khác cũng có
cùng một nhận định như vậy. Trần Chung Ngọc)
Trước
hết, Kutler cho rằng chế độ thực dân đã cáo chung một thế kỷ nay rồi và vai trò
của ông Hồ đã đi vào quá khứ. Ngày nay, Việt Nam là một phần của nền kinh tế
toàn cầu, có nghĩa là có những liên doanh mang lại lợi nhuận cho chính phủ, cho
một số viên chức được ưu đãi, và cho những công ty Tây phương.
Nhưng
Kutler ghi nhận là: “Tuy nhiên, thế
giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ, và những người như ông, những người đã lo
lắng, chiến đấu và hi sinh để giải phóng quốc gia của họ thoát khỏi sự sỉ nhục
và gông cùm của sự chuyên chế bạo ngược ngoại quốc.” (Nevertheless,
the world is a different place because of Ho, and others like him, who
agitated, fought and died to liberate their lands from the stigma and yoke of
foreign tyranny.)
Sau
đó Kutler viết: “Duiker đã đi quá sự tranh luận đơn giản trong thời
Chiến Tranh Lạnh về vấn đề ông Hồ là người Cộng sản theo chính thống Mác-Lênin
hay là một nhà ái quốc quốc gia, hiến thân cho cuộc giải phóng và thống nhất
đất nước?” (Duiker has moved beyond the simplistic Cold War debate of whether
Ho was a dedicated Communist, beholden to Marxist-Leninist orthodoxy, or
whether he was a patriot and a nationalist, dedicated to freeing and uniting
his country.) “Duiker đã nhận
định đúng, Hồ Chí Minh có căn rễ sâu đậm trong phong trào Cộng sản quốc tế,
nhưng ông luôn luôn là một người quốc gia đã mang lại sự lãnh đạo, viễn kiến và
sự cương quyết hiến thân cho nguyên lý dân tộc tự quyết “ (Duiker
rightly notes that Ho had deep roots in the international Communist movement;
but he was a constant nationalist who provided leadership, vision and a firm
commitment to the principle of self-determination.)…
“Ông Hồ không hề nao núng khi dùng chủ nghĩa
Cộng Sản cho những mục đích quốc gia. Lời tuyên bố của ông: “các dân ở Đông Dương vẫn
sống và sẽ còn sống mãi” khó mà phù hợp với chủ nghĩa Mác. Duiker nhấn mạnh
là, đối với ông Hồ, độc lập quốc
gia bao giờ cũng là mục tiêu chủ yếu, trong khi chủ thuyết về một cộng sản
không tưởng vẫn là một vấn đề mơ hồ, bất định cho tương lai”[Ho unabashedly used
communism for his own nationalist ends. His statement that "the peoples of
Indochina still live and will live
forever" is hardly compatible with Marxism. Duiker insists that for Ho, national independence always was the primary
goal, while the doctrine of a communist utopia remained a vague, indefinite
matter for the future.] Duiker cũng nhắc lại cho chúng ta là rất
tiếc vì những nhận định hời hợt về cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Paris và rồi
Washington đã thất bại không nắm lấy tay ông Hồ, để đưa đến những hậu quả sâu
đậm cho người Việt Nam và cho thế giới (Duiker painfully reminds us
that external Cold War considerations led to the failure of Paris and then
Washington to grasp Ho's hand, resulting in profound consequences for the
Vietnamese people and the world.)
Lẽ
dĩ nhiên, cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của Duiker không làm
những người mang nặng lòng hận thù Cộng Sản hài lòng, và họ đã lên tiếng chê sử
gia Duiker cũng như tất cả các tác giả Âu Mỹ viết về ông Hồ mà không đúng ý họ
là ngu dốt, là những người ngoại quốc, đâu có biết gì về ông Hồ bằng người Việt
Nam. Chỉ có những người vô tên tuổi, vô văn hóa, và chẳng biết gì mấy về Việt
Nam như họ mới có thể biết rõ về ông Hồ, dù rất có thể họ chưa bao giờ thấy mặt
ông Hồ, và chỉ biết ông Hồ qua những luận điệu tuyên truyền chống Cộng ở hải
ngoại và qua vài chi tiết lặt vặt trong những tác phẩm của những người sau này
chống Đảng như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần v..v....
Điển hình cho loại người này trên Internet là Minh Võ, một người rất năng nổ
trong chiến dịch “No Hồ” ở hải ngoại, viết trên diễn đàn điện tử Đàn Chim Việt,
một diễn đàn có vẻ như là nơi để cho một số người nhân danh tự do ngôn luận vào
đó chửi lộn. Minh Võ đang cố gắng phá đổ cái mà ông ta gọi là “thần tượng Hồ
Chí Minh”, dù rằng chẳng có ai coi ông Hồ là thần tượng, vì hầu như mọi người
dân trong nước đều coi ông Hồ đơn giản là “Bác Hồ”. Nhưng trình độ hiểu biết,
khả năng lý luận, và thủ đoạn bịa đặt sự kiện của ông Minh Võ không cho phép
ông ta đạt được mục đích, cho nên những điều ông ta phê bình Duiker cũng như
những điều ông ấy viết về ông Hồ không có mấy giá trị trí thức, để lộ rõ một
kiến thức kém cỏi và viết với một tâm trạng thù hận và thiếu sự lương thiện trí
thức trong đó. Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng, nhưng tôi để
cho phần sau.
Trước
hết chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu về ông Hồ:
Trong
tờ “Les Collections de L’Histoire”, số 23, Avril-Juin 2004, một
tuyển tập về “Indochine Vietnam :
Colonisation, Guerres et Communisme” có bài“Con Người Trở Thành Hồ Chí
Minh” [L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư
Diễn Giảng Danh Dự tại Đại Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong
đó có vài chi tiết chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí
Minh là người Cộng Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết,
trang 33:
Đối
với Quốc (Nguyễn
Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên những phương tiện hành động, như
là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng ta phải hiểu rằng giật độc lập ra
khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm vụ rất khó khăn mà người ta không
thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện, không cần thiết phải là một sự
viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc. Chúng ta không lấy lại được
độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động tương tự. Đó là sự sai lầm
của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có lẽ ông Hồ muốn nói
đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn Quyền Merlin]. Chúng
ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng
còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự phân tích thực tiễn, có thể nói
đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin đã cung cấp cho tôi đường lối
hành động này.”
(Pour
Quoc, le marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué
des années plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une
puissance comme la France
est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide extérieure et
pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de conseils et de
contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et par des actes
de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires commirent. On gagne
l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a aussi besoin d’une
foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même parler d’une bible. Le
marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)
Thực
ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề Quốc Gia
Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions) của
Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second
Congress of the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết
đến trong Đệ Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực
công nhận là mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn
trong bản văn trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức
được là những luận đề này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để
cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành
công.
Chúng
ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là một tài
liệu trích dẫn từ một tài liệu
trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia Alain Ruscio phổ biến năm 1990,
trang 34-36:
“Năm
1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã nắm chắc quyền lực, và những cuộc thanh
trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ
như con người Hồ Chí Minh tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông
ta không được tin cậy để giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã trách
cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân thay
vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.”
(En
1934, il est de retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes
purges vont débuter en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi
Minh faillit en être victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier
aucune responsabilité. Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme
qui sous-tend le combat anti-colonial à l’internationalisme de la révolution
prolatérienne.)
“Về
vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924.. Được huấn luyện
về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã nhìn theo đặc
tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai
cấp ở Đông phương không giống như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của
mình trên một căn bản triết lý nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là
lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu là gì? Không phải là tất cả nhân loại.”
(À
ce sujet, il a expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la
révolution et au marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de
l’Orient: “ La lutte de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en
Occident.” ; Marx a bâti sa doctrine sur une certaine philosophie de
l’histoire. Mais quelle histoire? Celle
de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute l’humanité).
“Hồ
Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là người Quốc Gia
sau lớp sơn đỏ, như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N. Roy, người Ấn
Độ, đã nói? Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông ta đã đọc bản
Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu ảnh hưởng trí
thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ nghĩa Mác không bao
giờ có tính cách giáo điều.“
(Ho
Chi Minh était-il vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en
rouge”, comme l’a dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question
mérite đêtre posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste,
s’il dit maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine,
son adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)
“Năm
1963, người Cộng Sản Lưu Thiếu Kỳ đã phác họa một hình ảnh chính trị của ông
Hồ, nếu đúng, cho thấy một vị thế không thoải mái [của ông Hồ] đưa đến
một sự gắn bó đôi đàng với lòng yêu nước chấp nhận thỏa hiệp, và chủ nghĩa xã
hội độc quyền: “Hồ luôn luôn là người hữu khuynh.. Khi chiến tranh Đông Dương
chấm dứt, ông ta không thể quyết định là thiết lập một chế độ tư bản hay một
chế độ theo xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đã quyết định cho ông ta.””
(Le
communist Chinois Liu Shaoqi esquisse en 1963 un portrait politique de Ho qui,
s’il est exact, indique la position inconfortable qui résulte d’une double
adhésion au patriotisme consensuel et au socialisme exclusif: “Ho a toujours
été un droitiste.. Lorsque la guerre d’Indochine prit fin, il ne put se décider
à choisir d’instaurer soit un régime capitaliste soit un régime socialiste. Ce
fut nous qui décidâmes pour lui.”)
“Không
có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo
cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông
Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng
không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó
không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức
khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng .”
(Rien
n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi Minh et d’autres dirigeants
communistes que les propos que Mao Zedong et Liu Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh
en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral de tuer même ses adversaires;
Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce n’est pas une question de
morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas pertinent d’invoquer la
morale lorsqu’on avait affaire aux contre-révolutionnaires capitalistes.)
Trong
cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman,
Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:
“Ông
Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết Mao và Lê-nin; thiên
tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý tưởng của ông ta có thể khá co
dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh ông ta: nền độc lập và thống
nhất của Việt Nam.”(Ho was less concerned with niceties of doctrine than Mao and Lenin;
his genius was for political action, and his ideology was capable of
considerable stretching as long as it tended toward the purpose that obsessed
him: the independence and unification of Vietnam .)
Trong
cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston , 1981, Paul Joseph, Giáo sư xã hội
học, đại học Tufts, viết, trang 83:
“Dù
rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là
do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện
gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là
một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm
soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy
tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ
kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại
giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou
nhưng cho rằng có.”
(Despite
a lack of evidence,Washington continued to
perceive the anti-French struggle (in Vietnam )
as something inspired and directed from the Soviet Union .
For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American
embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose
“philosophy and political organization emanated from and was controlled by the
Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the
existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State
Department cable to the US
Ambassador in China
read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but
assumes it exists..)
Marilyn
B. Young, trong cuốn The Vietnam
Wars: 1945-1990, HarperPerennial, New
York , 1991, viết, trang 4:
“Trong
vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì những “mùi hôi quốc
gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh rộng rãi bao gồm cả các
địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị đả kích là kẻ xét lại và
là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm sau sự tranh luận đắng cay về mối liên
hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng xã hội mới được giải quyết,theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ,
sự thành lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”
(Over
the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their
“nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include
even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as
reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate
on the relationship between national and social revolution was resolved, along
the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)
Trên
đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu khác có những nhận định
tương tự rải rác trong những cuốn sách mà tôi đã đọc. Lẽ dĩ nhiên, tôi không
thể nào trích dẫn tất cả những nhận định ấy trong phạm vi một bài viết như thế
này. Điều này đòi hỏi nhiều thời gian và thích hợp trong một cuốn sách viết ông
Hồ hơn. Nhưng qua những tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng ông Hồ không
phải là tay sai của Nga và Tàu như một số người có đầu mà không có óc cố tình
lên án ông ta là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, hay tệ hơn nữa là “điệp viên của
Cộng Sản Quốc tế” [Minh Võ]. Họ không hề biết chính trị của ông Hồ giữa Nga và
Tàu, đã khôn khéo từ chối không nhận đề nghị của Nga cũng như Tàu gửi quân tình
nguyện vào đánh giúp. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Ho Chi Minhcủa
Jules Archer, Chương 9: “Giữa Con Gấu Nga Và Con Rồng Tàu” (Between
Russian Bear and Chinese Dragon), trang 109:
“Đến
Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách Mạng Trung Quốc, ông Hồ cẩn thận đứng giữa
Mao Trạch Đông và đại diện của Nga Sô, Miklai Suslov. Trong những cuộc đàm phán
riêng, ông Hồ đã thành công lấy được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moscou để
tăng gia giúp thêm vũ khí và viện trợ dân sự, nhưng khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn
quân sự đến ViệtNam. Ông Hồ biết rõ là nếu để cho con gấu Nga hay
con rồng Trung Hoa được đặt chân vào cửa ngõ Hà Nội thì dần dần cửa ngõ này sẽ
bị cưỡng bách mở rộng ra cho đến khi Bắc Việt mất đi nền độc lập và trở thành
một quốc gia bị chiếm.”
(Visiting
Peking in 1959 for the 10th anniversary
of the Chinese Revolution, Ho was careful to stand between Mao Tse-Tung and
Chief Soviet Delegate Mikhail Suslov. In private negotiations, he managed to
win pledges of additional arms and aid from both Peking
and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or
military advisers. Ho knew that if either the Russian bear or the Chinese
dragon were allowed to trust a foot inside Hanoi’s door, that door would
gradually be forced open until North Vietnam lost its independence and became a
captive nation.)
Đọc
về ông Hồ chúng ta thấy rõ Mỹ và Pháp, vì những nhận định chính trị sai lầm, đã
càng ngày càng đẩy ông ta về phía Cộng Sản, và ông ta không có con đường nào
khác, vì để thực hiện mục đích không hề thay đổi của ông là thực hiện nền độc
lập và thống nhất của Việt Nam, nên ông ta cần đến các đồng minh. [Hãy nghĩ đến
chuyện ông viết 8 bức thư cho Tổng Thống Truman, đến chuyện Mỹ giúp 80% quân
phí cho Pháp trở lại tái lập nền đô hộ ở Đông Dương, và rồi dựng lên chế độ Ngô
Đình Diệm, vi phạm hiệp định Genève, ngăn chận cuộc bầu cử vào năm 1956 để
thống nhất đất nước.]
Cuối
cùng, vị thế của ông Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam ra sao? Chúng ta đã biết,
Wilfred Burchett đã nhận định ở trên:
Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh
belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào
ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ
đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn
cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ
số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.
Nhận
định này đúng hay sai? Có lẽ câu trả lời thiết thực nhất là của Hoàng Xuân Ba trong bài “Hai
Câu Chuyện Hoàn Toàn Trung Thực”, mới đây đăng trên Đàn Chim Việt:
Chuyện thứ nhất : lá cờ đỏ sao vàng trên mạng:
Trưa
2/9/2006, ngày quốc khánh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang nói
chuyện với một người bạn Việt Kiều trên Yahoo Messenger (YM) tôi bất ngờ nhận
được thông điệp của một người bạn trẻ Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, kèm theo đó là lời kêu gọi hãy thay đổi
avatar (hình ảnh đại diện) trên YM bằng lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ biểu trưng cho
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại danh sách nickname của mình trên YM, tôi thấy
rất đông các bạn trẻ thay đổi avatar bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng.
Sáng
nay, 4/9/2006, báo Tuổi Trẻ đăng bài: “Mừng Quốc khánh trên mạng”. Trong bài
viết này, tác giả mô tả lại hình ảnh nhà nhà treo cờ, người người treo cờ trên
mạng: “Lần đầu tiên, cư dân trên mạng đón lễ Quốc khánh hoành tráng bằng cách
đưa hình ảnh lá cờ Tổ quốc lên mạn trang trọng trên các blog (nhật ký cá nhân
trên mạng) và trên avatar trong công cụ chat YM của mình trong ngày 2-9. Và
ngày 3-9, tất cả đều đồng loạt thay vào đó là chân dung của Bác Hồ”.
Chuyện thứ hai : lăng ông Hồ Chí Minh :
Tôi
đã có dịp gặp gỡ trên mạng với bạn đọc của DCVOnline gần đây qua bài Tản mạn vể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội, đăng ngày 31/08/2006
(với hàng chục ý kiến khác nhau). Cũng dịp công tác này, tôi tranh thủ được một
thời gian ngắn để ghé thăm lăng ông Hồ với mục đích tìm hiểu xem thái độ, tình
cảm của người dân Việt Nam và nhất là người dân Hà Nội đối với ông Hồ ra
sao. Điều làm tôi thật bất ngờ là
có rất nhiều cá nhân đến viếng thăm lăng ông, các đoàn viếng lăng vào ra tấp
nập. Để vào thăm lăng của ông tôi được một anh bảo vệ cầm loa phóng
thanh bắt phải đứng xếp vào hai hàng dọc, một đặc trưng của xã hội chủ nghĩa,
rồi theo đó vào lăng. Quả thật tôi
cảm nhận được sự trang nghiêm của lăng mộ ông Hồ và cả sự sùng bái của những
người dân bình thường viếng thăm lăng. Một cách tự động, tất cả mọi người đều
kính cẩn, nghiêm trang khi đi ngang qua xác ông được đặt trong một cái hòm rất
rộng, bốn bên là kính trong suốt. Trông ông không giống như những
bức hình chụp mà tôi từng thấy, khuôn mặt trông vẫn còn rất tươi tắn hồng hào
nhưng trông giả chứ không thật, có lẽ bị đánh sáp.
Báo
chí Việt Nam sáng 4/9/2006 đều đồng loạt đăng tin về việc có hàng vạn người đến
viếng thăm lăng ông Hồ. Báo Tuổi Trẻ viết: “Sáng 2/9, đoàn người vào lăng viếng
Bác dài ra tận hai phía trên phố Ngọc Hà và Hùng Vương. Đông nhất là các đoàn
học sinh và người già từ các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây. Còn có rất nhiều đoàn
đến từ tỉnh xa như Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Phước... Có nhiều người
nước ngoài cũng đứng trong đoàn người từng bước vào lăng. Khu vực quảng trường
trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng đông kín người”.
Một
thông tin đáng chú ý đó là thiếu tướng Đào Hữu Nghĩa, trưởng Ban quản lý lăng
kiêm tư lệnh Bộ tư lệnh bảo vệ lăng ông Hồ cho biết đến hết buổi viếng ngày 2/9
chỉ khoảng 25.000 lượt người được vào viếng lăng ông, số còn lại đành phải chờ
đến hôm sau. Tôi tin rằng con số trên rất thật bởi vì tôi đã được tận mắt chứng
kiến dòng người xếp hàng dài vào viếng lăng ông Hồ, không nhất thiết phải do cơ
quan hay các hội đoàn tổ chức.
Duiker
cũng viết, trang 566: “Mỗi tuần có hơn 15000 người đến viếng thăm Lăng
ông Hồ” (More than 15000 visit the mausoleum each week)
Tại
sao ngày nay người dân Việt Nam vẫn còn kính ngưỡng ông Hồ Chí Minh, tuy rằng
trên diễn đàn truyền thông hải ngoại có cả một chiến dịch để xóa bỏ “thần tượng
Hồ Chí Minh”? Lý do rất dễ hiểu là phần lớn những điều viết về ông Hồ của giới
chống Cộng là sai lầm, là vô căn cứ, bắt nguồn từ lòng thù hận một chiều của
những người gọi là Quốc Gia, chứ không đặt trên những sự thật và sự kiện lịch
sử. Thật vậy, những người chống Cộng cực đoan như Minh Võ chỉ nhìn thấy những
điều lặt vặt như chúng ta thấy trong bài ông ta phê bình cuốn “Ho Chi
Minh, A Life” của William J. Duiker. Để có thể thêm vài chi tiết về
ông Hồ Chí Minh, có lẽ tôi cũng nên điểm qua bài phê bình Duiker của Minh Võ.
PHẦN 2
Trên website Đàn Chim Việt, Minh Võ có viết
bài phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J.
Duiker. Sau đó Minh Võ còn “đọc lại Trần Dân Tiên” và đưa ra một số ý
kiến. Đọc hai bài này, chúng ta thấy rõ trình độ của ông Minh Võ không
thể gọi là trình độ, kiến thức của Minh Võ không thể gọi là kiến thức.
Tôi không có ý định phê bình chi tiết hai bài trên của ông Minh Võ, chỉ duyệt
qua vài điểm, cùng trình bày vài ý kiến của độc giả về ông Minh Võ để chúng ta
thấy rõ Minh Võ thuộc loại người nào. Trước đây, trên trang nhà Giao
Điểm, Hà Giang đã có bài nhận định về cuốn “Ho Chi Minh” của Duiker, viết đứng
đắn và nghiêm chỉnh hơn ông Minh Võ rất nhiều.
Trước hết, Lê Duy Khoa trên Đàn Chim Việt đã vạch
ra rằng ông Minh Võ đã áp dụng bậy bạ tam đoạn luận để phỉ báng ông Hồ như sau:
a)
Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx là sai lầm, dối trá, tàn ác, phản nhân đạo,
phản dân tộc. [Trần Chung Ngọc = Đây là một khẳng định vô
trách nhiệm (affirmation gratuite). Cũng như Trần Mạnh Hảo, ông Minh Võ,
không hiểu gì về Marx mà cứ viết bậy về Marx. Thế giới ngày nay đánh giá
Marx như thế nào? Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế
giới là như thế nào?. 1. “Theo kết quả thăm dò ý
kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư
tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được
coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??.
[BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential
philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by
BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân
bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng
7. 2. “Kết quả chọn vĩ nhân
của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3
trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và
ngu cả hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như ông Minh Võ? ]
b) Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng sản [Không
ai phủ nhận điều này]
c) Kết luận: không thể coi HCM là nhân đạo, yêu
nước, anh hùng mà phải coi ông ta là tội đồ ác ôn của đất nước.
Chúng ta thấy ngay, ông Minh Võ đã dựa trên sự
hoàn toàn sai lầm của mình trong vế a) để đưa đến một kết luận tất nhiên cũng
hoàn toàn sai lầm trong vế c). Nhưng không phải chỉ có vậy. Đọc
Minh Võ, chúng ta thấy rõ qua giọng văn một sự thù hận ngất trời và phản ánh
một trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đối với tôi, Minh Võ không
phải là người đáng để tôi phê bình về những “tác phẩm” của ông ấy, tôi để dành
điều này cho một số độc giả trên Đàn Chim Việt trong phần trích dẫn ở cuối
bài. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một lý luận rất ngớ ngẩn nếu không muốn
nói là ngu xuẩn của ông Minh Võ khi phê bình đoạn sau đây của Duiker.
“Bất
kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông [Hồ] để lại cho dân tộc mình
ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách
mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng
nói đích thực của họ.”
Vì Nhà Nước VN muốn dịch cuốn “Hồ Chí Minh” của
Duiker nhưng muốn bỏ đi những đoạn nói về đời tư của ông Hồ, nên ông Minh Võ
phê bình như sau: “Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử
gia [Duiker] thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích
thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?”
Thứ nhất ông Minh Võ không hiểu thế nào là di
sản. Thứ nhì, cái di sản ông Hồ để lại cho dân tộc là nền độc lập quốc
gia sau khi cất bỏ được chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên đất nước, và
tiếp nối bởi chính ông và những người sau ông trong việc thành công đi đến sự
thống nhất đất nước. Di sản đó tuyệt đối không phải là chính sách luôn
luôn thay đổi của Nhà Nước và lẽ dĩ nhiên không phải là yêu cầu của Nhà Xuất
Bản Chính Trị Việt Nam đối với Nhà Xuất Bản Hyperion ở New York như chúng ta
thấy trong tài liệu sau đây trên Internet:
“Trong một bức thư cho nhà Xuất Bản Sách Hyperion ở
New York, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia của chính quyền (VN) đã nói rằng họ chỉ
muốn bỏ đi vài đoạn trong cuốn sách của Duiker “không phù hợp với những thông
tin trong hồ sơ của họ.” (In a letter to New York publisher Hyperion Books, the
state-run National Politics Publishing House has said only that it wants to
remove certain passages from the Duiker biography that "do not conform
with the information in our files".)
Đây có phải là một hành động ngăn cấm hay không
hay chỉ là một đề nghị thương thuyết? Đầu óc như vậy mà ông Minh Võ muốn
làm việc đội đá vá trời là xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh thì đúng là sự mơ
tưởng hão huyền của những kẻ cuồng tín vô minh.
Một nhận định khác có tính cách phóng đại rất lố
bịch của ông Minh Võ về cuộc cải cách ruộng đất như sau:
“Thời
ông HCM cũng thế nếu ông ấy tôn trọng Hiến pháp sao ông lại làm cải cách ruộng
đất giết chết hơn nửa triệu người.?”
Ông lấy con số “hơn nửa triệu” này ở đâu ra?
Chắc chắn là ông chưa hề đọc đến những công cuộc khảo cứu rất sâu rộng về Cải
Cách Ruộng Đất ở Việt Nam :
Mục đích, kết quả, số nạn nhân v..v.. của Gareth Porter, Edwin E. Moise, Noam
Chomsky và Edward S. Herman. Rất có thể ông chỉ tin vào con số đoán mò
của Hoàng Văn Chí, người đã thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ
là đoán mò sau khi bị Gareth Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong
tài liệu của Chí [Chi eventually conceded that his
number of victims of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington
Post, 13 September, 1972). This admission came after Porter had made
Chi’s falsification public.] Thật là đẹp mặt cho Hoàng Văn Chí và cho cả
Minh Võ.
Theo những tài liệu của Noam Chomsky và Edward S.
Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng Văn Chí vốn là
một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin của Chính Quyền miền Nam,
rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ.
Trong bài “The
Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land reform Reconsidered” (Bulletin
of Concerned Asian Scholars, September 1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch
ra vài đoạn Hoàng Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành
cải cách ruộng đất của Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và
miền Nam tuyên truyền xuyên tạc, thí dụ :
“Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc”
đáng lẽ phải dịch là “We did not pay attention to precautions against
deviation” thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch
lạc” (We made too many deviations); “Xử trí oan những người ngay” thay vì dịch
là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch là “hành quyết quá
nhiều người lương thiện” (executed too many honest people); “không nhấn mạnh
phải thận trọng, tránh…” [did not emphasize the necessity for caution and for
avoiding] thì Chí bỏ đi không dịch (omitted); “dùng những biện pháp trấn áp quá
đáng” [used excessive repressive measures] thì Chí dịch là “xử dụng đế khủng
bố” (resorted to terror); “thậm chí dùng phương pháp truy bức” [even coercive
measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra tấn” (worse still,
torture) v..v.. và còn thêm thắt vào những đoạn không có trong bản văn như
“nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing enemies everywhere) mà Gareth Porter không
tìm thấy trong bản gốc (not in original).
Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng,
trong những cuộc phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc
cải cách ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau
khi Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những
cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn kỳ lạ
trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily candid
in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những điều viết trong tài
liệu của mình.
Noam Chomsky và Edward S. Herman viết
trong cuốn The Political Economy of Human Rights, Vol. I, South End Press, Boston , 1979,
trang 342:
“Nguồn thông tin căn bản về
những con số giết chóc lớn trong cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những
người của CIA hoặc Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt
Công giáo nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến
Tranh Tâm Lý Trung Ương của quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị
“tắm máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng lên” bởi cơ quan
tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các
tài liệu ngụy tạo để bôi nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950
để biện minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong
việc sửa soạn tổ chức cuộc bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.” (The
basic sources for the larger estimates of killings in the North Vietnamese land
reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda
Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France,
Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological War Service for the
Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures for the land reform were
“100% fabricated” by the intelligence services of Saigon. According to
Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged
documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to
negotiate with Hanoi
in preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)
Giáo sư sử học James P. Harrison cũng
viết trong cuốn The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia
University Press, 1989, trang 149:
“Tuy nhiên, những cuộc
nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải
cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một
tác giả, hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu
hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng
đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.” (Careful
later studies, however, have estimated that the true figures for those executed
in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed
according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and
therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if
not a “total fabrication”.)
Giáo sư Pierre Brocheux viết trong
bài “Con
Người Trở Thành Hồ Chí Minh” , trang 34:
“Đối với Hồ Chí Minh, tập
thể hóa đất đai là sự bảo đảm phân chia đồng đều tài sản. Nhưng ông ta tố
cáo sự dùng những hành phạt thể xác đối với các địa chủ và các nông dân giàu có
và yêu cầu thi hành một chương trình sửa sai những sự bất công và phục hồi
những sở hữu của nông dân thuộc quyền của họ (1956). Nhưng ông ta phải
nhượng bộ trước đa số trong Đảng. Chiến dịch cải cách ruộng đất làm cho
ít nhất là 15000 người chết.” (Pour Ho Chi
Minh, la collectivisation des campagnes est la garantie d’une répartition
égalitaire des resources. Mais il dénonce l’utilisation des peines
corporelles contre les “propriétaires fonciers et riches paysans” et demande
une programme de correction des injustices et la restauration des paysans
propriétaires dans leurs possessions et leurs droits (1956). Il s’incline
pourtant devant la majorité du Parti. La réforme agraire côutera la vie à
15000 personnes au moins.)
Về con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ, chúng
ta có thể đối chiếu với một số tài liệu khác: Của Gareth Porter: từ 800
đến 2500; của Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào
khoảng 5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000; của Trương Như Tảng,
David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”:
nhiều ngàn (thousands); của Bùi Tín trong Mặt Thật:
“lên tới mười mấy ngàn”; của Vũ Thư Hiên: từ 4000 đến 5000. Chúng ta
không thể biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất.
Nhưng xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số nông
dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy v..v.. thì con số
“hơn nửa triệu” của ông Minh Võ là con số chỉ có trong đầu của ông Minh Võ.
Trên diễn đàn Đông Dương Thời Báo,
tháng 5, 2006, chúng ta có thể đọc một đoạn về cải cách ruộng đất của chủ biên
người Công Giáo, Giu-se Phạm Hữu Tạo, như sau:
Thật vậy, Hồ Chí Minh thực
hiện cải cách ruộng đất, muốn lấy lại đất mà không phải giết nhiều người,
vì lúc đó các địa chủ có tiền bạc tài sản, chạy thoát trước về vùng Pháp chiếm
đóng… Cải cách ruộng đất là việc phải làm ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Phải
lấy lại đất của Pháp, của nhà
Chung để chia cho cán bộ và nông dân có sức lực và siêng năng cần
cù mà không có đất để sống và cày bừa và hy sinh cho cách mạng quyết dành chủ
quyền - độc lập - thống nhất đất nước … Chính sách cải cách ruộng đất đương
nhiên là đụng đến Giáo hội và giáo dân Công giáo Việt gian, cho nên chúng ta
không lạ gì tại sao người Công giáo căm thù CSVN và ngụy tạo bôi đen chính sách
Cải Cách Ruộng Đất.
Hiện tượng Minh Võ thì hầu như ai cũng biết về ý
đồ và trình độ của ông ta như thế nào. Để quảng cáo cho cái ý đồ này, ông
ấy nhờ một người quen biết trẻ hơn, có cùng trình độ như ông ấy, lên tiếng
quảng cáo cho cuốn Hồ Chí Minh: Một Nhận Định Tổng Hợp của ông ấy
trong buổi ra mắt sách. Đó là ông Huỳnh Lương Thiện. Nhưng đọc
Huỳnh Lương Thiện chúng ta thấy rõ là trình độ của ông ấy cũng chẳng hơn Minh
Võ là bao nhiêu. Chứng minh?
Ông Huỳnh Lương Thiện phát ngôn:
Tôi
nghĩ rằng tôi chỉ đáng em hay con của rất nhiều vị ngồi trong phòng này mà
thôi. Thế mà quý vị có thể tưởng tượng là có kẻ khi tuổi còn nhỏ hơn, chỉ đáng
em của tôi thôi mà đã dám xưng là bác với cả nước chúng ta. Quý vị biết đó là
ai không? Hồ Chí Minh. Vâng, cám ơn quý vị đã cho biết kẻ đã dám
xưng bác với cả nước là Hồ Chí Minh, tôi cũng biết điều đó. Tuy nhiên phải đến
khi đọc cuốn sách này của bác Minh Võ thì tôi mới biết thêm là họ Hồ đã dám
xưng bác với cả nước khi chỉ mới 55 tuổi, bằng tuổi cô em gái tôi.
Thưa
quý vị, tôi tuổi Canh Dần, 56, 57 tuổi rồi và đó là một trong hàng chục, hàng
trăm dữ kiện độc đáo, đặc biệt mà tôi đã tìm thấy trong cuốn sách này.
Như vậy là ông Huỳnh Lương Thiện sinh khoảng năm
1949-1950, tất nhiên đích thân không biết gì về ông Hồ Chí Minh mà chỉ biết qua
những sự kiện mà ông ấy cho là độc đáo trong cuốn sách của Minh Võ. Rõ
ràng là, dựa vào điều viết bậy của Minh Võ trong cuốn sách của ông ấy, Huỳnh
Lương Thiện đã phát ngôn bậy như trên. Nhưng dữ kiện trên có thật là độc
đáo không? Rất có thể là độc đáo ở chỗ đã để lộ cái trình độ vô cùng thấp
kém của mình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam .
Thứ nhất, từ “Bác” mà ông Hồ Chí Minh dùng chỉ để
nói với các “cháu nhỏ” trong vòng thân tình như người trong một nhà. Bác,
nguyên nghĩa là anh của Bố hoặc Mẹ, và người Việt Nam thường dùng tiếng “Bác” để gọi
thay con. Tiếng Bác cũng còn được dùng giữa các bạn bè cao tuổi dù rằng
người bạn kém tuổi mình “Nguyễn Khuyến: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác (Dương
Khuê)”. Ông Hồ có thói quen là bất chợt đi thăm các em nhỏ trong trường
học và nói những chuyện “Bác cháu ta”. Chưa ai thấy ông Hồ xưng là Bác
với cả nước như ông Huỳnh Lương Thiện đã nói bậy dựa theo lời viết bậy của Minh
Võ bao giờ. Người dân Việt Nam gọi ông Hồ là “Bác” nghĩa là
coi ông như là bậc trưởng thượng thân tình của các con cháu trong nhà.
Các ông chống Cộng mà chẳng biết gì về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam .
Hãy đọc Peter A. DeCaro ở Buena
Vista University
viết về ông Hồ Chí Minh (acjournal.org):
“Chức
“Bác” của ông Hồ phải được hiểu trong ngữ cảnh của nền văn hóa Trung Hoa trong
đó người cao tuổi hơn được đặc biệt tôn kính. Bác (big uncle) là từ dùng
để chỉ người anh của Bố hoặc Mẹ, người em nhỏ tuổi hơn gọi là “Chú”. Thật
là tự nhiên khi người dân gọi [ông Hồ] là “Bác Hồ” vì những đồng nghiệp của ông
ta thuộc một thế hệ trẻ hơn. Do đó Bác là một từ thân thuộc và những
người Cộng Sản ở miền Bắc thường đưa ra sự kiện là mọi gia đình đều coi Bác Hồ
là một thành phần vinh dự của gia đình. Còn nữa, Bác đồng nghĩa với cách
cư xử dân chủ: người Cha có thể ra lệnh, nhưng người Bác [hay Chú] chỉ có thể
đưa ra những lời khuyên.”
(Ho’s title of “Bac” must be understood in the
context of Chinese culture in which the eldest members of society enjoy
especial veneration. Bac means “big uncle;” it is the term used to denote
the elder brother of a father or mother while the younger brother is referred
to as Chu , “little uncle.” It was only
natural that people began to speak of Bac Ho because his closest colleagues
already belonged to a younger generation. Bac is therefore a familiar
term and the Communists in North
Vietnam liked to point out that every family
considered Bac Ho an honored member. In addition, Bac is synonymous with
democratic conduct; the father can command, but the uncle only advises.)
Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển
nhiên là những người không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém
của mình về xã hội Việt Nam
so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở
trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không
cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần
đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên
phí thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là
thủ đoạn và trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay.
Vậy sau đây, tôi xin nhường chỗ cho vài tiếng nói
của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt:
1) Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu
vấn đề một cách chủ động, giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã
rơì quá dễ dàng vào những thứ lý
sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy thử
đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả Mỹ
nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái
nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng
cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn
lưu ý: đây là một vấn đề sử học,
một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn diễn lập trường, hoặc tệ
hơn nữa bộc lộ oán thù, phục hận.
2) Tôi chưa đọc cuốn sách "HCM, Nhận định
tổng hợp" của Minh Võ nhưng đã "thử" đọc mấy bài viết của Minh
Võ trên DCV Online, và chưa lần
nào "tiêu hóa" nổi trọn vẹn một bài của Minh Võ. Không thể
"tiêu hóa" nổi vì giọng văn của Minh Võ đầy hằn học và hận thù; người
đọc (ngay cả lớp trẻ) có thể dễ dàng nhận thấy đó là giọng văn của một loser.
Không thể "tiêu hóa" nổi vì những phân tích và nhận định của Minh Võ
chẳng dựa trên phương pháp luận khoa học và những tài liệu lịch sử nào. Còn
những bài viết của HCM để tuyên truyền, kêu gọi người dân đứng lên giành độc
lập cho đất nước là những nghệ thuật vĩ đại; nó sánh như Nguyễn Trãi khi bôi mỡ
vào lá cây cho kiến ăn để tạo ra dòng chữ "Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm
tôi", hoặc là truyền thuyết về anh em vua Quang Trung thuần phục được ngựa
thần trên núi.
Sách
của Minh võ là tiểu thuyết để giải trí ư? Không đáng; là sách lịch sử ư? Không
phải. Có thư viện nào người ta mua và lưu trữ sách của Minh Võ không? Không có.
Cái ông Lương Thiện gì đó chẳng lương thiện tí nào đang quảng cáo sách cho Minh
Võ đó; và cũng nhân cái diễn đàn này ông ta gài thêm mấy khẩu hiệu chống cộng
cũ rích - cũng là giọng hằn học của một loser.
3) Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định
kiến ác ý cuả chính mình, hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí
Minh- Một nhân vật vĩ đại, kiệt xuất số một; Vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử
VN và nhân loại. Đó là những lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; Câu chữ cắt
xén, biạ đặt một cách có chủ ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại
của dân tộc ta.
Những
người có thiện ý, thiện tâm... Thường có con mắt bao dung, độ lượng, nhìn vào
mặt sáng, khai thác mặt sáng - Mặt tích cực. Công đức và thành tựu mà các vị
giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn kẻ tiểu
nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện chứng, dẫn chứng, có lang, có
lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ tiền. Chỉ cần chú ý đôi
chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng.
4) Rêu
rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến thức của Minh
Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) MV đã sai lầm hoàn
toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết Marx là sản
phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó ĐTQT là phản ứng của
những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân, đế quốc. 2) MV chỉ
biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì đến những tác phẩm
khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, MV cũng chỉ bám vào những từ ngữ
tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho chúng (tư hữu, vô
sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) MV không hiểu biết gì về những mâu
thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia (giàu/giàu, giàu/nghèo,
thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý thức hệ (chủ nghĩa dân
tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát xít…) do đó đã trút
tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy móc. 3) Riêng với những nước bị thực dân thống trị
vấn đề cướp nước và chống cướp nước đã bị MV đầy lùi về phía sau một cách cố ý
rồi mượn luận điệu của thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để
biện hộ cho tội cướp nước của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt
gian” không có gì là oan cả.
5) Phương pháp gọi là
“nghiên cứu” của MV cũng hoàn toàn phản khoa học. Ông ta không tìm hiểu
thực tế và những phát sinh và chuyển động của nó để rút ra kết luận mà ngược
lại: gán cho cộng sản một số thuộc
tính chết cứng rồi từ đó kết án tất cả những biểu hiện khác nhau trong thời
gian của phong trào cộng sản (bất chấp những nội dung khác nhau,
mâu thuẫn trong phong trào ấy). Trong tranh luận, nghiên cứu người ta gọi
phương pháp ấy là procès d’intention, không cần tìm hiểu, phân tích xem sự thực
như thế nào mà chỉ cần quy kết theo thiên kiến của mình là đủ. Ai cũng biết đó
là phương pháp suy luận của những đàn bà hay ghen (nhìn đâu cũng thấy những kẻ
cướp chồng minh), những kẻ bị bệnh tâm thần ( nhìn đâu cũng thấy kẻ hại
mình). Chẳng có gì khoa học, học
thuật ở đây cả. Lý luận của MV rất phù hợp với cộng đồng những người có thâm
thù với cộng sản: họ không còn đủ sáng suốt để nhìn ra đúng sai trong
chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa cộng sản có rất nhiều cái sai) như một hiện tượng
lịch sử, từ lý thuyết đến thực hành, cũng không đủ lý trí để nhìn ra ngay cả
những đúng sai trong bản thân những thất bại nhục nhã, đau đớn của họ nữa. Đối
với những con người như vậy, họ chỉ cần đổ lỗi để biện minh, chỉ cần bôi bác,
nguyền rủa để trả hận là đủ. Thứ
lý luận của MV chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi.
6) Thực ra thì "Nhận định tổng hợp ",
hay không tổng hợp thì người ta cũng biết rõ: Hằn học, chửi rủa thoá mạ một
nhân vật lịch sử của VN như cố chủ tịch HCM là những người như thế nào ! Có rất
nhiều gương mặt khác nhau dưới đủ mọi chiêu bài. Rất may, qua đó người ta càng
hiểu hơn thế nào là tính chân xác của lịch sử. Sẽ chẳng có người VN tỉnh táo
nào lại lên án Vua Lê Lợi, khi chỉ vì quyền lợi quốc gia mà đem vợ mình cúng
sống thần biển. ( bây giờ việc làm đó là thất đức và nặng mùi mê tín )
Nhưng mỗi người dân VN, đều công nhận Lê Lợi, đó là một vị Vua có công đánh
đuổi ngoại xâm, lập nên nhà Lê dài hơn 300 năm. Chắc chắn, thời buổi của ông
không có máy tính, để bị lên án và vạch trần nhiều thủ đoạ, mà tất cả vì đất
nước v.v. Trong công cuộc xây dựng, mở nước, và giữ nước, chưa có ông Vua
VN nào chuyên viết thỉnh nguyện thư gởi cho kẻ thù, để mong được kẻ thù thương
mà trả nước. Tất cả các chiến công lẫy lừng như Bạch Đằng giang dậy sóng,
hay trận Chi lăng ghi sử sách, chẳng viết bằng máu của dân VN đó sao? Chẳng lẽ
trận Rạch gầm, Xoài mút được viết bằng máu của người Miên hay Lào ? Đó là máu
của người VN đã đổ cho đất nước hôm nay. Dù muốn nói gì và nói sao chăng
nữa thì lịch sử đã chứng minh: Pháp đô hộ Việt nam, Mỹ muốn cứu đồng minh và
Người Nhật đã làm cho hai triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta chết đói. Biết
đâu trong chúng ta, có những người là con cháu của những người may mắn nhờ có
Việt minh phá kho thóc của Nhật.
7) Dù nói gì đi chăng
nữa, thì một dân tộc với mã tấu răng đen như các anh vẫn gọi, thế mà trong một
thế kỷ đánh gục đầu ba nước to lớn. Thử
hỏi trong lịch sử từ cổ chí kim của nhân loại hỏi ai đã làm được như thế ? Người làm được chuyện đó ngoài HCM thì còn có
ai ? Chẳng lẽ Ngô chí sỹ chăng hay Cựu hoàng Bảo đại ? Tui biết
trong thân tâm cũa người ngoại quốc, nhất là với người Mỹ, người Pháp và nhiều
người dân thuộc các nước nhược tiểu khác, trong con mắt của họ: HCM là nhà tổ
chức kỳ tài! Nếu không đủ đức đủ tài, mà như tui và các anh chẳng hạn, thì làm
sao làm được những việc kinh thiên động địa trên. Như chính chủ tịch HCM, công nhận
hễ là con người thì ai cũng có khuyết điểm, trên con đường kiến tạo đất nước và
giữ nước, Đảng CS VN không khỏi tránh những sai lầm.. Nhưng dù sai
lầm đến như thế nào thì cái chính là nền độc lập tự chủ của VN đã được tạo
dựng. Còn xây dựng nó như thế nào thì VN đang dần bước lên những nấc thang mà
tiền nhân vẫn mong đợi là xây dựng đất nước bằng mười bằng trăm thế kỷ 20 ? Bạn
có mơ và tin điều đó không ? Tui rất tin điều đó, bởi đó là bước đi tất yếu mà
chẳng có ai ngăn được bước đi lên của dân tộc VN chúng ta.! Vì vậy Hồ chí Minh
luôn là ngọn cờ soi dọi mỗi bước ta đi lên phiá trước !
8) Họ chụp mũ chúng ta là CS,
chúng ta chỉ cười thầm vì bạn bè lớn nhỏ của chúng ta cũng đang sinh hoạt trên
diễn đàn này, và tất nhiên bạn bè của chúng ta biết chúng ta hơn ai hết. Họ
chửi chúng ta là tay sai, nhưng họ không có thể đem ra một bằng chứng nào cả.
Chúng ta, vì tình người, đề nghị họ đọc một số sách vỡ lòng để họ còn biết tôn
giáo họ như thế nào, nhưng họ không dám đọc vì sợ "bức xúc" trong lòng.
Thế thì còn căn bản nào để nói cho nhau nghe? Thế thì còn căn bản nào để trở
lại một con người chân chánh? Tôi coi ông Karl Marx là một triết gia như bao
nhiêu triết gia khác, nhưng họ không chịu ông Karl Marx là một triết gia, mà
xem ông Karl Marx là một ông "kẹ" hạng nhất trên đời này. Triết lý
của Karl Marx được dạy khấp nơi trên thế giới ngay cả bật trung học, nhưng họ
quả quyết rằng chỉ có những quốc gia CS mới dạy triết lý của Karl
Marx! Rất buồn, là cùng một
giống người, nhưng mà hể có
"thánh đạo" thì hung hãn như một con chó, chỉ biết ăn rồi sủa chứ
chẳng biết lý luận gì cả, còn người không có "thánh đạo" thì hiền từ.
9) Theo ông Minh Võ thì cản trở cho công cuộc
vận động dân chủ tại VN là do dân chúng vẫn còn hiểu sai về Hồ Chí Minh cho nên
cần phải đánh đổ thần tượng Hồ mà bấy lâu nay đảng cọng sản xây dựng nên.
Đây là một công việc vô bổ vì chẳng làm cho uy tín của ông Hồ suy giảm đối với
người dân hai miền Nam Bắc. Gần
một triệu người miền Bắc mà đa số là công giáo di cư, sai lầm của cải cách
ruộng đất, vụ nhân văn giai phẩm, tết Mậu thân vẫn không ngăn cản được Việt
cọng thực hiện được thống nhất đất nước.Chắc chắn rằng khi quân Mỹ đem
một đội quân đông tới hơn 500000 người, chưa kể thêm những đội quân đồng minh
thì những người như ông Minh Võ lúc ấy ở Sài gòn đều nghĩ rằng họ sẽ chiến
thắng . Vậy thì sức mạnh của Viêt
cọng là ở chỗ nào nếu không nói là lòng dân. Họ tin tưởng ông Hồ vì đơn giản ông Hồ và
người dân có cùng chung một mục tiêu là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Chẳng
có bao nhiêu bộ đội đọc nhiều sách như ông Minh Võ để hiểu về lý thuyết này
lịch sử nọ. Họ cũng chẳng chiến đấu vì một thần tượng, lý do là năm 1969 ông Hồ
mất, Việt cọng vẫn tiếp tục sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy phân tích
nguyên nhân không phát triển của tình hình hiện là do VN còn tín nhiệm ông
Hồ. Điều này không đúng. Cần phải nhận định cho đúng đâu là nguyện vọng
của người dân hiện tại để có khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, nếu không chỉ là Dã
Tràng se cát...
10) Tôi, Trần Chung Ngọc, không còn trẻ,
nhưng tôi rất mừng vì có những bạn trẻ đã đưa ra những nhận định chính xác và
sáng suốt, dựa trên những sự kiện lịch sử chứ không dựa trên cảm tính phe
phái. Đây là một niềm hi vọng cho đất nước Việt Nam . Để kết luận, tôi xin
trích dẫn hai tài liệu. Trước hết là đoạn kết trong cuốn Ho Chi Minh của
Jules Archer, trang 189-190:
“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ
đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong
những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị
kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật
nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất
thế giới, đưa đến một thế bí quân sự.
Sự
cương quyết về một mục đích đã làm thay đổi giòng lịch sử, làm phân rẽ dư luận
quần chúng ở Hoa Kỳ, bắt buộc một Tổng Thống Mỹ phải rút lui không tái cử cho
nhiệm kỳ hai, khiến cho hàng triệu
giới trẻ trên khắp thế giới kính ngưỡng ông ta ủng hộ cách mạng và xuống đường
biểu tình ủng hộ ông ta, hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”
Sự
pha trộn duy nhất chủ nghĩa Mác-xít với chủ nghĩa gia trưởng, và chủ nghĩa quốc
gia cao độ của ông Hồ đã thành công vĩ đại trong việc gây cảm hứng cho dân ông
chịu đựng những sự hi sinh to lớn. Họ cũng còn kính yêu “Bác Hồ” vì nhân
cách khiêm nhường và những cách cư xử từ ái của ông. Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù –
Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được
ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở
ngoài Bắc.
Một
trong những thành quả vĩ đại của ông là, cũng như Tito, ông đã đạt thành một “Cộng sản quốc gia”, giữ cho nước của ông ta ở
ngoài những móng vuốt của cả Trung Hoa Đỏ và Liên Bang Sô Viết, trong
khi ông ta khôn khéo đi hàng đôi để có được sự giúp đỡ mà nước ông cần đến. Khi ông ta mất, Việt Nam không phải là một nước chư hầu, mà là một
nước độc lập đầy hãnh diện, cương quyết trên sự thiết lập cá tính quốc gia cho
mọi người Việt Nam …
Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân
nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ
Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông
coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người
“Bác” kính ngưỡng của nước ông.”
(Communist or not, Ho Chi Minh will
probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the
extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous,
dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States ,
the world’s mightiest power, to a military stalemate.
His single mind resolution changed
the course of history, polarized public opinion in the United States, forced an
American President to withdraw from seeking a second term, and radicalized
millions of admiring youth around the world who demonstrated in his support
chanting, “Ho, Ho, Ho Chi Minh”.
Ho’s unique mixture of Marxism,
paternalism, and intense nationalism was enormously successful in inspiring
tremendous sacrifice among his people. They also loved “Bac Ho” (Uncle
Ho) for his winning personal modesty and gentle ways. Ho was the despair
of all his enemies – the French, the Saigon
regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him.
He was held in as much affection in South Vietnam as among the people
he led in the North.
Not the least of his great
achievements was that he had, like Tito, achieve a “national Communism” which
kept his country out of the grip of both Red China and the Soviet
Union , while he skillfully played one off against the other to get
the help his country needed. When he died, North Vietnam was no satellite but
a proud, independent country, determined on nationhood for all Vietnamese…
When the books of his life are
balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam ,
Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as
the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.)
Thứ đến là nhận định của một cựu quân nhân Mỹ, ông
David Thomas, giáo sư nghệ thuật, đại học Boston, người đã tổ chức một cuộc
triển lãm tranh ảnh Hồ Chí Minh ở Oakland, California, và đã bị một số người
Việt Quốc Gia đến hò hét chống đối, văng tục và hành hung. Trước cuộc
triển lãm, ông Thomas đã tổ chức một cuộc thảo luận với một số người Việt Nam .
Ông phàn nàn: “Họ không cho tôi nói, văng tục, chửi hết câu này đến câu khác” (They
kept hurling insult after insult. I didn’t get a chance to speak.) Nhưng
ông ta cương quyết không nhượng bộ (But he stands behind his work
unflinchingly). Ý định của ông tổ chức cuộc triển lãm là để cho quần
chúng tìm hiểu về “con người đã làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới.” (I
want viewers to question, investigate this man who changed world
history). Về ông Hồ Chí Minh, Thomas nói:
“Tôi kính trọng tính chính trực của ông ta. Có
vẻ như là ông ta chỉ có một nhiệm vụ trong đời, và đó là giải phóng Việt Nam ra
khỏi người Pháp, và ông ta đã thành công. Hãy suy nghĩ về điều đó, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam đã đánh bại
một nước như nước Pháp và quay lại đánh bại chúng ta. Điều này chưa từng
có trong lịch sử. Và tôi kinh ngạc bởi điều đó. Chúng ta phải ngưỡng mộ con người đã làm được
như vậy.” (I respect his integrity,”
Thomas adds. “He seemed to have one mission in his life, and that is to free Vietnam of the
French, and he did it. Think about it, a little country like Vietnam beat a country like France and
turned around and beat us. That has never been done in history. And I’m awed by
that. You have to admire a man that did that.)
Hẳn nhiên Thomas đã nhìn sự việc trên bình diện to
lớn của lịch sử hơn là những chuyện lặt vặt như ông Hồ có mấy vợ, hút bao nhiêu
điếu thuốc lá một ngày, hay đã làm đơn xin học trường thuộc địa [Muốn học ở
Pháp khi đó không xin học ở trường thuộc địa thì xin học ở trường nào, trường
Nhà Dòng chăng. Nhưng có ai đọc kỹ câu này không: “Je désirerais devenir utile
à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des
bienfaits de l’instruction”. Vậy rõ ràng mục
đích của ông Hồ là muốn tăng thêm học vấn để phục vụ đồng bào. Pháp dùng
chính sách ngu dân để cai trị, nhưng ông Hồ lại muốn “trở thành hữu ích
cho Pháp” với mục đích dùng kiến thức của mình phục vụ đồng bào. Đọc về
ông Hồ, chúng ta ta thấy rõ đó là mục đích chính của ông. Nên nhớ, khi
vừa nắm được chính quyền, Việt Minh đã phát động phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ
khắp nước. Vậy mà người ta lại thường viện vào cái đơn xin học này để chứng tỏ
ông Hồ không phải là người yêu nước...]
Vài lời kết :
Tôi chưa từng có cơ hội đọc cuốn sách của Trần Dân
Tiên, chỉ biết đến tên cuốn sách này qua bài ông Minh Võ đọc Trần Dân Tiên và
viết trên Đàn Chim Việt: “Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công
bố Trần Dân Tiên không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh.”
Ông Minh Võ cho rằng các tác giả viết về ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1948-1975
đều bị lừa bịp bởi cuốn sách của Trần Dân Tiên về ông Hồ, và kể ra vài tác giả
quen thuộc: Bernard Fall, Jean Lacouture, David Halberstam. Nhưng đọc mấy
tác giả này, Bernard Fall: “Street Without Joy” (1964), “The Two Viet-Nams” (1967);
Jean LaCouture: “Cinq Hommes Contre La France” (1961);
Halberstam: “The Making Of A Quagmire” (1965) chúng ta
thấy họ không hề nêu ra nguồn tài liệu nào về Ông Hồ là lấy từ cuốn sách của
Trần Dân Tiên trong danh sách những tư liệu tham khảo. Và ngay cả trong
hàng trăm cuốn sách trong đó có viết về ông Hồ sau năm 1975 cũng không có cuốn
nào dùng tài liệu của Trần Dân Tiên.
Đúng như một bạn trẻ đã nhận định ở trên: “Thứ lý luận của Minh Võ chỉ
có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi” chúng
ta hãy điểm qua vài “lý luận” của ông Minh Võ:
1)
Nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là
kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn thậm chí cưỡng bách nhiều năm.
Thật vậy sao? Cưỡng bách tôn sùng?
Điều này chỉ có thể thấy trong lịch sử Công Giáo qua những Tòa Hình Án Xử Dị
Giáo (Inquisition) và lịch sử truyền đạo qua chính sách thực dân. Nếu là
cưỡng bách thì làm sao người dân có thể chiến thắng một cường quốc như Pháp rồi
về sau lại đánh bại một cường quốc vào bậc nhất thế giới như Mỹ. France
Fitzgerald đã viết: “Một bài học mà hầu như bất cứ vị lãnh đạo quốc gia
nào cũng có thể học được từ ông Hồ Chí Minh: đó là, nếu đi vào một cuộc chiến
lâu dài thì phải có sự ủng hộ của người dân. Sự ủng hộ này quan trọng hơn
vũ khí, vì nếu người dân tin vào chính nghĩa của họ, họ có thể chấp nhận những
sự hi sinh phi thường. Nếu họ không tin, mọi vũ khí trở thành vô ích.” [Vietnam Reconsidered: Lessons
From A War, p. 302: There’s a lesson that almost any
leader in any country might learn from Ho Chi Minh, and that is, if you embark
on a war of any duration, you must have the support of your people. This
support is more important than weapons, for if people believe their cause is
just, they are capable of extraordinary sacrifices. If they do not, all
your weapons are useless.]. Fitzgerald đã viết không sai. Nếu không
tin tưởng vào chính nghĩa, người dân Việt Nam không thể chịu bao hi sinh để
thắng nổi những thế lực quân sự có ưu thế tuyệt đối về quân sự như Pháp
và Mỹ trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Ai đã mang lại chính nghĩa đó, nếu
không phải là ông Hồ.
2) Minh Võ viết: “6 năm sau cái thời điểm mà
Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã
nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng
hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự
lãnh đạo của Hồ Chí Minh.”
Chẳng có ai, xin lỗi độc giả, viết bậy như Minh
Võ. Minh Võ có biết là thành phần, không phải là hơn một triệu, mà là gần
một triệu, của số người di cư từ Bắc vào Nam là như thế nào không. Hãy
đọc Bernard Fall trong “The Two Viet-nams”, trang 154:
“Trong số 860000 người chạy vào Nam, 600000 người là
tín đồ Công Giáo. Tuy 65% trên tổng số người Công giáo (ở ngoài Bắc) bỏ
Bắc Việt Nam, hơn 99.5 % những người không Công Giáo ở lại.”
(Of the 860000 who fled South at this time, 600000
were Catholics. Although 65 percent of the total Catholic population left
North Viet-Nam, more than 99.5 percent of the non-Catholics stayed put.)
Tại sao tỷ lệ những người Công Giáo chạy vào Nam
lại cao như vậy? Fall giải thích:
“Những khẩu hiệu và truyền đơn tuyên truyền kêu gọi
những tín đồ Công Giáo sùng tín là “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ
miền Bắc”; cho nên, toàn thể các xứ đạo – thí dụ như Bùi Chu và Phát Diệm – từ
những ông giám mục cho đến hầu như ông linh mục cuối cùng trong làng và giáo
dân đã gói ghém mọi đồ đạc [để đi theo Chúa và Đức Mẹ]”
(Propaganda slogans and leaflets appealed to the
devout Catholics with such themes as “Christ has gone to the South” and the
Virgin Mary has departed from the North”; and whole bishoprics – Bui Chu and
Phat Diem, for example, packed up lock, stock, and barrel, from the bishops to
almost the last village priest and faithful.)
Chúng ta cũng không nên quên rằng Bùi Chu, Phát
Diệm là những khu “Công giáo tự trị”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để chống
Việt Minh. Vậy chính cái mặc cảm phản bội dân tộc cộng với trình độ quá
thấp đến độ bị mấy tên xảo quyệt như Lansdale và “bề trên” tuyên truyền
láo: “Chúa
đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”, một
sự sự mê tín mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh phải lắc đầu kêu trời trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm” đã
khiến cho số người Công Giáo trên di cư vào Nam. Phần còn lại là công
chức, quân nhân trong quân đội liên hiệp Pháp. Còn tỷ lệ những người dân
thường không đáng kể. Ông Minh Võ dốt sử nên không hiểu rằng cuộc di cư
của số người Công Giáo này thực ra là có lợi cho chính quyền miền Bắc: có thêm
ruộng đất để chia cho nông dân nghèo, và đỡ đi phần nào của mối lo về một số
người thuộc một thế lực “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.” ở
lại miền Bắc.
Viết bài này, tôi không có ý biện hộ hay bênh vực
ông Hồ Chí Minh trước cuộc “thánh chiến chống Cộng” ở hải ngoại, mà chỉ viết
theo sự hiểu biết của mình qua sự tổng hợp một số tài liệu. Lịch sử đã rõ
ràng, không ai cần đến tôi làm việc này. Nhưng thấy trình độ và những thủ
đoạn hạ bệ ông Hồ, Minh Võ cũng như của một số đồng bọn ở đây thấp kém và ấu
trĩ quá, mà lại cứ thích viết bậy, có những hành động làm nhục lây cả những
người Quốc Gia như tôi, nên tôi buộc lòng phải viết lên vài điều để cảnh tỉnh
những người muốn dùng những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử cho những mục đích chính
trị của mình. Viết về ông Hồ, chúng ta không thể chỉ kể ra những chi tiết
lặt vặt trong đời tư của ông mà phải nhìn vấn đề trên bình diện rộng hơn.
Ít nhất là phải phân tích những hoạt động của ông ở ngoại quốc trước khi ông
biết đến chủ thuyết Mác-Lênin, ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles, ở các Hội Nghị
Quốc Tế, phải đọc những bài ông Hồ Chí Minh, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, viết trên
những tờ L’Humanité, La Vie Ouvrière, Le Paria v..v.., nội dung ra sao, ông đã
thành lập và tổ chức Việt Minh từ bao giờ, để làm gì, đã có những hoạt động
chống Nhật và Pháp như thế nào, và sau cùng, đường lối chính trị của ông
sau 1945 cho đến khi ông qua đời v..v.. thì mới có thể đánh giá đúng ông
Hồ được.
Vài lời cuối với ông Minh Võ và những người có ý
định phá bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh” như ông Minh Võ: Cái di sản mà ông
Hồ Chí Minh để lại cho người dân Việt Nam là một nước Việt Nam độc lập và thống
nhất. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là công của mình ông Hồ mà là của toàn
dân, ít ra là của đại đa số người Việt đã coi ông Hồ như là biểu tượng truyền
thống yêu nước của người Việt Nam, do đó đã không ngại mọi hi sinh để đạt
thành. Nhưng quan trọng hơn là thế giới đã biết nhiều hơn về Việt Nam và không còn dám coi thường Việt Nam tuy Việt Nam vẫn còn là một nước tương đối
nghèo và kém phát triển. Xin đừng có coi thường độc giả. Đừng có hi
vọng họ tin tất cả những điều mình viết. Ngay cả giới trẻ ngày nay cũng
sáng suốt lắm. Họ không để cho bị bịp bởi những luận điệu vô căn cứ,
thuần túy viết theo thiên kiến và cảm tính đâu. Dù thế nào đi chăng nữa
thì đối với thế giới và đại đa số người dân Việt Nam , đúng như Jules Archer đã viết:
“Khi những trang sách về cuộc đời của ông được
cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông
Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng
ông, coi ông như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ -
người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”
“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ
đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những
khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này.”
Bài viết của anh QV rất kỳ công, nếu đem làm đề tài bảo vệ luận án TS lịch sử, e được 10* luôn, còn đem cho tôi đọc hơi phí vì cả loạt tiếng Anh làm chú dẫn của anh làm tôi hoa cả mắt khi mà chỉ biết mỗi vài từ như: ok, many, hay Anh là tôi, tôi yêu cầu thì viết là ”I love toalet”.
Trả lờiXóaDù sao viết bài đả phá cái đám bèo Tây, ca ngợi BH như thế thì ai cũng thấy đúng. Còn tôi thì rất mừng, vì chẳng gì nhà tôi đang ở đây, BH đã đến chục lần.
Tuy nhiên nếu QV để ý một tý, sẽ thấy cái trình của ace ta nó hạn chế lắm, bạn chỉ cần viết ý chính thôi, để ace đọc mau còn đi bia bọt nữa chứ.
Đọc xong cái còm này của tôi, mời bạn đi Bia Tăng Bạt Hổ luôn nhé, coi như một lời xin được cảm thông với nhận xét của tôi!
GÕ CÁI IPHON TOÀN MẤT DẤU, CŨNG LÀ LOẠI NGƯ PHỦ, NHƯNG ÔNG GIÁO SƯ TRẦN CHUNG NGỌC ĐÁNH CÁ Ở MĨ
Trả lờiXóaCẢM ƠN BẠN TK5 KÌ VỌNG, NHƯNG LOẠI BINH NHÌ Ở DƯỚI ÔNG ẤY XA
Chuyển đề tài đi Việt ơi!
Trả lờiXóaHôm qua tâm sự cùng nhà nghiên cứu lịch sử, QV đồng ý chuyển đề tài rồi, tại bạn nể nang các bạn khác cứ đòi đầy đủ các dẫn chứng, từ nay chỉ dẫn ra các quán bia thôi.
Trả lờiXóa