Ảnh minh họa trống đồng của tác giả Vũ Hải. |
Bài viết đăng tại: VHNA
NỖI BẤT AN CỦA LỊCH SỬ
Những ai
quan tâm tới lịch sử dân tộc Việt đều biết rằng, khi nhà Tần diệt nước Thục,
giết vua và thái tử Thục ở núi Bách Lộc năm 316 TCN, Thục Chế cùng di duệ nhà
Thục chạy xuống tá túc trên đất của vua Hùng. Nhiều lần Chế tấn công Hùng Duệ
Vương nhưng không thành, tới đời con ông là Thục Phán đã diệt vua Hùng, lập
nước Âu Lạc.
Năm 257
TCN, Triệu Đà vua nước Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam
Việt. Quốc sử của ta, từ đời Nguyễn về trước, đều ghi nhận Âu Lạc và Nam Việt
là nhà nước chính thống của người Việt. An Dương Vương và Triệu Vũ Đế đều được
ghi công lớn. Không những thế, Triệu Đà còn được suy tôn là vị vua mở đầu của
lịch sử đất nước. Tuy nhiên, đến thời Dân chủ công hòa, vào thập niên 1960,
giới sử gia miền Bắc, dựa theo quan điểm duy vật lịch sử, phán quyết rằng Triệu
Đà là ngoại xâm nên bỏ Kỷ nhà Triệu khỏi chính sử.
Từ đó tới
nay, trong dư luận xã hội cũng như học giới có nhiều ý kiến không đồng tình với
việc làm trên, đưa ra nhiều bằng chứng cùng luận cứ cho thấy nhà Triệu là nhà
nước của người Việt. Bản thân người viết cũng hơn một lần lên tiếng về việc
này*. Nay xin trình bày những di hại của việc trục xuất nhà Triệu khỏi chính
sử.
*
Truyền
thuyết cũng như chính sử Việt Nam ghi rằng, Xích Quỷ là nhà nước đầu tiên tiên
của người Việt được thành lập năm 2879 TCN. Sau này, nhà nước Văn Lang của các
Vua Hùng hình thành trên cương vực của nước Xích Quỷ. Vào thời Chiến Quốc, nhà
nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của
người Việt như Ngô, Việt, Sở… Tần Thủy Hoàng diệt nước Sở, sáp nhập đất đai
cùng dân cư nước Văn Lang cũ vào đế chế Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà, một
viên huyện lệnh người Việt đã lãnh đạo dân Việt phía nam Dương Tử lập nước Nam
Việt. Việc Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào mình, về bản chất
lịch sử không khác gì việc Quang Trung diệt nhà Lê Trịnh để lập Đại Việt thống
nhất bao gồm cả vùng đất phía Nam. Dù gì đi nữa, cũng không thể bác bỏ sự thật
là, trong một thế kỷ tồn tại, Nam Việt là cái cầu, là sợi dây nhau cuối
cùng kết nối Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt.
Vì vậy,
việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt đưa tới những hệ lụy nghiêm trọng sau:
- Tước bỏ tư cách thừa kế của người Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt. Từ những phát hiện của di truyền học đầu thế kỷ XXI cho thấy, người Việt không chỉ sinh sống lâu đời ở Nam Dương Tử mà hàng vạn năm trước là chủ nhân của đất Trung Hoa. Trên đất này, đại tộc Việt đã làm nên những nền văn hóa rực rỡ.
- Tước bỏ vai trò chủ nhân Việt đối với ngôn ngữ gốc mà người Trung Hoa đang sử dụng hiện nay. Trong tám phương ngữ được xác định trên đất Trung Hoa thì tiếng Việt Quảng Đông được coi là ngôn ngữ gốc. Trong khi đó, nguồn cội của ngôn ngữ Quảng Đông chính là ngôn ngữ vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, trung tâm của người Việt khoảng 15.000 năm trước.
- Tước bỏ vai trò sáng tạo chữ Giáp cốt của người Việt. Chữ Giáp cốt được phát hiện đầu tiên vào thời nhà Ân ở Hà Nam. Nhưng khảo cổ học xác định rằng tại văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước đã có ký tự hình vẽ trên yếm rùa. Cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây phát hiện ký tự tượng hình khắc trên xẻng đá có tuổi 4000 tới 6000 năm trước. Những ký tự kiểu Giáp cốt này xuất hiện trước khi người Hoa Hạ ra đời. Do vậy nó hoàn toàn là sản phẩm sáng tạo của người Vịệt.
- Tước bỏ mối liên hệ huyết thống và văn hóa với những bộ tộc người Việt đang sống trên đất Trung Hoa. Những khám phá lịch sử cho thấy, trước cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng thì phần lớn đất Trung Hoa do người Việt làm chủ: Thục và Ba phía tây nam; Ngô, Sở, Việt ở trung tâm và phía đông; Văn Lang phía nam. Do cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng, phần lớn đất đai và dân cư Việt bị sáp nhập vào đế chế Tần. Trong phần đất bị chiếm, đại bộ phận người Việt bị Hán hóa. Tuy nhiên, có không ít nhóm Việt không chịu đồng hóa, đã lui sâu vào cư trú trong vùng rừng núi. Lâu dần, từ người Lạc Việt – tộc đa số trong dân cư- họ bị thiểu số hóa. Những nhóm người như tộc Thủy, Bố Y ở Quý Châu vẫn giữ nhiều nét văn hóa Việt cổ, có thể nói đó là nền văn hóa Việt hóa thạch. Nếu nghiên cứu văn hóa của những tộc người bà con này, chắc chắn sẽ khám phá lại nhiều điều quý giá của văn hóa Việt cổ. Đặc biệt tộc Thủy với 340.000 người vẫn giữ được sách Thủy (Thủy thư -水书) viết bằng chữ Thủy (Thủy tự), loại chữ tượng hình gần gũi Giáp cốt văn nhưng hành văn theo cách nói xuôi của người Việt, một loại văn tự hóa thạch sống, được Trung Quốc coi là bảo vật.
- Mất quyền thừa kế với truyền thống và văn hóa Nam Việt.
Sáp nhập
đất đai và dân cư Âu Lạc, Nam Việt thành quốc gia lớn trong khu vực. Trái với
quan niệm phổ biến cho đến nay là Triệu Đà dùng kế sách “nội đế ngoại vương”
(bên trong xưng đế nhưng đối với nhà Hán thì xưng vương), suốt đời mình, Triệu
Đà xưng danh hiệu Triệu Vũ Đế và cháu ông cũng xưng đế mà bằng chứng là chiếc
ấn bằng vàng, kich thước 310 x 310 mm (lớn hơn mọi con ấn của vua Hán) khắc bốn
chữ Văn Đế hành tỷ (文帝行璽) tìm thấy trong lăng mộ. Sau khi
phát hiện lăng mộ Triệu Văn Đế, người Trung Hoa đã lập khu trưng bày di tích
này với khoảng 2500 hiện vật đặc sắc, trong đó đại đa số là thuộc văn hóa Việt.
Do coi đây là của người Trung Hoa nên giới sử học Việt chưa hề có nghiên cứu
nào về di chỉ quan trọng này.
Để mất
những mối liên hệ trên, không chỉ là nỗi đau của người Việt Nam, dòng cuối cùng
của Bách Việt còn độc lập và giữ được cương thổ. Nguy hại hơn, nó cắt đứt mối
liên hệ với quá khứ, khiến cội nguồn, lịch sử và văn hóa Việt trở nên chông
chênh trên không chằng, dưới không rễ!
Từng có
cuộc tranh biện giữa học giả hai nước Trung Việt về trống đồng Vạn Gia Bá và
Đông Sơn, cái nào có trước? Do từ chối Nam Việt nên học giả Việt Nam bỏ mặt
trận, thúc thủ lui về biên giới Việt Nam hiện tại, để rồi cố sức một cách vô
vọng cho rằng trống Đông Sơn có trước! Nếu không tự từ bỏ Nam Việt, học
giả Việt Nam có thể dõng dạc tuyên bố: “Với công nghệ định tuổi đồ đồng hiện
nay cùng tình trạng cổ vật khi thu hồi, không thể định tuổi chính xác hai loại
trống đồng trên. Tuy nhiên điều này không thật có ý nghĩa vì trống Đông Sơn
cũng như Vạn Gia Bá đều là sản phẩm sáng tạo của người Lạc Việt, tổ tiên chúng
tôi trên đất đai mênh mông của người Lạc Việt từ nam Dương Tử tới miền Trung
Việt Nam, ở thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên!”
Tuy là
chuyện của quá khứ nhưng lịch sự luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống hiện tại.
Những nhận thức và quyết định không thỏa đáng về lịch sử đưa tới những di họa
khó lường.Bởi vậy, thiết nghĩ, chúng ta cần có những nghiên cứu nghiêm túc và
kĩ càng về vấn đề này và các vấn đề khác của lịch sử dân tộc.
Mùa giỗ
Tổ năm Quý Tỵ
* Triệu
Đà ngài là ai? Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn học, 20080
* Bàn lại
về vai trò chính thống của nhà Triệu http://thuyhavan.blogspot.com/2010/04/ban-lai-ve-vai-tro-chinh-thong-cua-nha.html)
Cảm ơn hai bạn "đánh cá" đã sưu tầm đúng nguyện vọng của tất cả người Việt.
Trả lờiXóaVây người Việt là ai? đất nước Viet Nam như thế nào?.
Tất cả những người với suy nghĩ là người Việt :
-Là dân tộc Kinh (còn dân tộc Kinh như thế nào? hai bạn "đánh cá" tìm hiểu hộ).
-Tiếng Việt tính từ đứng đằng sau chứ không đứng trước như tiếng Hán.
-Đã là dân tộc Kinh thì khác với dân tộc Hán, nên đa số số hoa kiều nói tiếng Quảng Đông nhận họ là người Hán và là chinese, cấm con gái họ lấy người Việt, còn con trai lấy vợ Việt thì được, vì vậy dẫn lính chinese về đánh Việt Nam.
-Còn cũng như 152 đất nước trên thế giới, nước Nhật cũng có chữ tượng hình, Korea cũng có chữ tượng hình, nhưng họ không phải là chinese, không một của hàng ăn chinese nào có thể tồn tại tại Seoul. Nước Việt Nam là một đất nước độc lập có chủ quyền. china đã ăn cắp 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Việt Nam, hiện nay đang dã tâm ăn cắp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nữa.
-china chỉ là 1 thằng to xác, với dã tâm thôn tính các dân tộc xung quanh, nhưng tất cả lịch sử từ trước đến nay đã chỉ ra rằng china chỉ là một một thằng rất yếu. một điều chắc chắn là những dân tộc không phải là Hán ở china sẽ không nghĩ họ là chinese.